Việc thiết kế các chính sách, giải pháp, công cụ để thực hiện mục tiêu phát triển đồng đều giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư, các thành phần kinh tế, đặc biệt là đối với những đối tượng yếu thế trong xã hội là rất quan trọng.
Từ yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới đảm bảo công bằng trong phân bổ, tiếp cận, sử dụng các nguồn lực xã hội, nhất là nguồn lực tài chính. Do đó, việc thiết kế các chính sách, giải pháp, công cụ để thực hiện mục tiêu phát triển đồng đều giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư, các thành phần kinh tế, đặc biệt là đối với những đối tượng yếu thế trong xã hội là rất quan trọng.
Đó cũng chính là mục tiêu của “Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” (sau đây gọi tắt là Chiến lược), phê duyệt tại Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 22 tháng 01 năm 2020.
Chiến lược đã xác định tài chính toàn diện là việc mọi người dân và doanh nghiệp được tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính một cách thuận tiện, phù hợp nhu cầu, với chi phí hợp lý, được cung cấp một cách có trách nhiệm và bền vững, trong đó chú trọng đến nhóm người nghèo, người thu nhập thấp, người yếu thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ, và yêu cầu sự tham gia và phối hợp chặt chẽ của khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, nhấn mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại và đổi mới sáng tạo là thành tố quan trọng thúc đẩy tài chính toàn diện và khuyến khích áp dụng kinh nghiệm quốc tế về các giải pháp đột phá để đẩy nhanh việc thực hiện các mục tiêu tài chính toàn diện ở Việt Nam.
Vậy thì chúng ta đang thực hiện Chiến lược này như thế nào? Đã hơn 4 năm từ khi có quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thực sự là có khá ít thông tin về quá trình thực hiện chiến lược này qua công tác giám sát xem chiến lược có được thực hiện theo kế hoạch không, đánh giá quá trình liên quan đến cách thức thực hiện, tập trung vào việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tầng lớp dân cư, doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, hộ gia đình, đánh giá chi phí - lợi ích hay chi phí - hiệu quả trong mối liên hệ giữa chi phí các nguồn lực và các lợi ích cho xã hội mà chiến lược tạo ra, đánh giá tác động mong muốn tới người dân, hộ kinh doanh, cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ hoặc những tác động không dự kiến trước, có thể là tích cực hoặc tiêu cực đối với các bên tham gia chiến lược.
Phạm vi của Chiến lược được xác định là phổ cập các sản phẩm, dịch vụ tài chính cơ bản do các tổ chức được cấp phép cung ứng, bao gồm: thanh toán, chuyển tiền, tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm cho các đối tượng là tất cả mọi người dân và doanh nghiệp, trong đó đặc biệt chú trọng tới nhóm đối tượng mục tiêu là những người chưa được tiếp cận hoặc ít được tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ tài chính như: người sống ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa; người nghèo, người thu nhập thấp, phụ nữ và những đối tượng yếu thế khác; doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ, hợp tác xã, hộ gia đình sản xuất kinh doanh với chi phí hợp lý trên nền tảng ứng dụng công nghệ số, phù hợp với nhu cầu và khả năng chi trả của mọi người dân, doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, dân cư nông thôn, vùng sâu, vùng xa, người có thu nhập thấp, người yếu thế.
Mới đây, chương trình Thời sự 12h ngày 16 tháng 6 của VTV1 đã đưa tin Chính phủ Thái Lan thực hiện hỗ trợ nông dân 50% giá mua phân bón qua chương trình đồng chi trả trên ứng dụng di động với số tiền khoảng 800 triệu đô-la Mỹ, hay dãn nợ cho nông dân trong 3 năm với số tiền 830 triệu đô-la Mỹ với mục tiêu tăng thu nhập của người nông dân lên gấp 3 lần trong 4 năm. Các chương trình MTQG đang thực hiện cũng được thiết kế nhiều khoản hỗ trợ tài chính rất cụ thể cho người dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn như cho vay sản xuất, cho vay tiền học, làm nhà ở, đất ở, đất sản xuất, thủy lợi nhỏ, nước sạch, nhà tiêu hợp vệ sinh… với nguồn kinh phí rất lớn từ ngân sách, nếu được thực hiện qua các ứng dụng số, do các fintech hàng đầu thực hiện thì có lẽ hiệu quả được nhân lên gấp bội, rủi ro lãng phí, thất thoát, hoàn trả các khoản vay nhỏ sẽ được giảm thiểu tối đa.
Các doanh nghiệp fintech hàng đầu của Việt Nam như Momo, ZaloPay, Finviet… đang tích cực số hóa các kênh phân phối hiện đại nhằm mở rộng phạm vi cung ứng sản phẩm, dịch vụ tài chính với chi phí thấp, đặc biệt là qua điện thoại di động cho các tầng lớp dân cư, hộ kinh doanh. Với hàng chục triệu người dùng, các nền tảng fintech này đã góp phần đang kể vào việc thực hiện Chiến lược thông qua đẩy mạnh thanh toán qua thiết bị di động, phát triển mạnh các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số, tài chính số cho người dân sống ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa trên cơ sở hợp tác với các tổ chức tín dụng nhờ các giải pháp công nghệ thanh toán mới dễ sử dụng, có chi phí thấp, thuận tiện và an toàn, phù hợp với các giao dịch thanh toán cá nhân.
Tuy nhiên, có vẻ như hành lang pháp lý để khuyến khích đổi mới sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển đa dạng các tổ chức cung ứng, kênh phân phối, sản phẩm, dịch vụ tài chính chậm được rà soát, sửa đổi bổ sung, nhất là đối với các doanh nghiệp fintech vốn đang hoạt động theo giấy phép thử nghiệm với nhiều hạn chế, cho nên, một số chỉ tiêu đến năm 2025 của Chiến lược khó có thể thực hiện được. Trong khi đó, Chiến lược đã xác định hoàn thiện khuôn khổ pháp lý nhằm tạo môi trường thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu tài chính toàn diện là điều kiện tiên quyết, với rất nhiều quy định cụ thể.
Việc thiếu vắng các quy định của pháp luật do chậm được cập nhật, sửa đổi, bổ sung đang tạo ra khá nhiều rủi ro pháp lý, nhất là khi tiến bộ của khoa học công nghệ diễn ra với cấp số nhân, tạo ra vô vàn cơ hội cho các doanh nghiệp công nghệ. Mới đây, khi sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng, đã có nhiều ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp fintech và chuyên gia tài chính, ngân hàng cho rằng cần quy định trong luật về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát sandbox cho fintech nhưng chưa được chấp nhận nhất là khi việc xây dựng cơ chế sandbox cho Fintech có thể liên quan một số bộ luật khác nhau và cần có sự phối hợp của một số Bộ, ngành và địa phương liên quan, hay các tiêu chuẩn kỹ thuật kết nối liên thông giữa các tổ chức tín dụng với với các tổ chức công nghệ tài chính và các tổ chức cung ứng dịch vụ khác nhằm phục vụ cho các giao dịch thanh toán điện tử trong nền kinh tế gắn với xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Ngay như việc niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán với các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo công nghệ để huy động nguồn lực xã hội cũng chưa được chấp nhận do quy định của Luật Chứng khoán là doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi 2 năm liền trước năm đăng ký niêm yết, một yêu cầu khá khó với start-up công nghệ.
Để các doanh nghiệp công nghệ tài chính có thể tiếp tục nghiên cứu, sáng tạo, phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ tài chính cơ bản, hướng đến thực hiện thành công Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, rất cần có sự quan tâm, hỗ trợ thích đáng về mặt thể chế của Nhà nước, sự phối hợp nhịp nhàng giữa cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp fintech, các tổ chức tín dụng, các hiệp hội nghề nghiệp, cơ sở đào tạo nguồn nhân lực, cộng đồng doanh nghiệp, hộ kinh doanh và người dân, trong đó quan trọng nhất là sự hợp tác chặt chẽ giữa các công ty fintech và các tổ chức tín dụng, tiền đề cho việc nâng cao tiếp cận dịch vụ tài chính cho các đối tượng mục tiêu của Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia.