Chiến lược tài chính toàn diện Quốc gia: "Tín dụng trắng" đẩy lùi "tín dụng đen"

TS. Nguyễn Đức Kiên - Chủ tịch Hội đồng khoa học IDS| 04/07/2024 07:46

Để thực hiện tốt Chiến lược, đảm bảo mục tiêu “không bỏ ai lại phía sau”, cần tạo mọi điều kiện giúp các đối tượng yếu thế có khả năng tiếp cận với các kênh “tín dụng trắng”. Đó là các kênh cung ứng dịch vụ tài chính chính thức, bền vững, hoạt động trong khuôn khổ của luật pháp và dưới sự quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Từ đầu thập niên thứ hai của thế kỷ 21, cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ 4 bùng nổ. Thế giới với những ranh giới vật lý điện tử bị xóa nhòa, các ứng dụng dịch vụ được cá nhân hóa và tối ưu hóa tới mức tối đa với sự hỗ trợ của công nghệ. Lần đầu tiên trên thế giới, khái niệm bình đẳng trên không gian số được hình thành và là xu hướng được xã hội chấp nhận, với minh chứng cụ thể, hữu hình nhất chính là sự phổ biến của chiếc điện thoại thông minh. Tốc độ lan truyền của thành tựu công nghệ không bị giới hạn, cũng giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các ngành, lĩnh vực, các nền kinh tế.

Hai lát cắt của bức tranh tài chính toàn diện

Dựa trên thành tựu và nền tảng của cuộc CMCN 4.0, các dịch vụ tài chính trở nên phổ biến hơn tại các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên, vẫn có khoảng 30% người trưởng thành trên toàn thế giới không có đủ điều kiện để được hưởng sự phục vụ của hệ thống tài chính truyền thống. Việc hình thành tài chính toàn diện để đảm bảo sự công bằng cho mọi người dân được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính với chi phí hợp lý, thuận tiện, có trách nhiệm và bền vững là xu thế trong thập niên thứ 2 và thứ 3 của thế kỷ 21.

tai-chinh.jpg
Tại toạ đàm "Chiến lược tài chính toàn diện Quốc gia: Con đường tiếp cận vốn mới của các doanh nghiệp nhỏ Việt Nam" vừa diễn ra ngày 1/7, nhiều chuyên gia cũng đề nghị cần có thêm các kênh cung ứng dịch vụ tài chính để giúp "đẩy lùi tín dụng đen"... (Ảnh IDS)

Việt Nam không nằm ngoài xu hướng của thế giới khi Chính phủ đã sớm hợp tác với Ngân hàng thế giới để xây dựng một chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện. Việt Nam cũng là một trong 25 quốc gia ưu tiên tập trung phát triển tài chính toàn diện trong Sáng kiến phổ cập tiếp cận tài chính đến năm 2020. Ngày 22/01/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 149/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025 và định hướng đến 2030 (Chiến lược). Chiến lược xây dựng mục tiêu tổng quát là tối đa hóa các đối tượng được tiếp cận và sử dụng an toàn các sản phẩm, dịch vụ tài chính phù hợp, có chi phí hợp lý, có trách nhiệm và bền vững, được cung ứng bởi các tổ chức hợp pháp. Chiến lược đã xác định các mục tiêu cụ thể đến năm 2025: Có ít nhất 80% người trưởng thành có tài khoản giao dịch tại các tổ chức được cấp phép; 25% - 30% người trưởng thành gửi tiết kiệm tại các tổ chức tín dụng. Nếu so sánh các tiêu chí cơ bản của Chiến lược với mặt bằng thế giới, có thể thấy đây là một mục tiêu rất lớn.

Bởi lẽ, bất chấp sự hỗ trợ của công nghệ, các tổ chức tài chính, tín dụng truyền thống dường như vẫn chưa bao phủ nhanh đến tất cả các nhóm đối tượng sử dụng dịch vụ, đặc biệt là người thu nhập thấp, người dân ở các khu vực vùng sâu, vùng xa… Không thể phủ nhận rằng, thời gian qua các TCTD truyền thống đã đi đầu trong công cuộc chuyển đổi số để phổ cập dịch vụ tài chính hiện đại. Nhờ đó, tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản giao dịch hay gửi tiết kiệm đã tăng trưởng rất nhanh. Tuy nhiên đó là lát cắt ở các đô thị lớn, nơi có đầy đủ các điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng.

Số liệu từ WB cho thấy một lát cắt khác. Đó là tỷ trọng người sở hữu tài khoản trong khoảng 5 năm, từ 2017 – 2022 đã tăng trưởng hơn 20% (trong đó có 2 năm thực hiện Chiến lược). Nhưng khi phân theo mức thu nhập từ thấp đến cao thì tỷ lệ người trưởng thành ở mức thu nhập thấp nhất chỉ tăng khoảng 6% sau 5 năm, trong khi các nhóm có thu nhập cao có tốc độ tăng cao hơn. Về lý do chưa mở tài khoản, năm 2022 có hơn 23% người lựa chọn “tổ chức tài chính quá xa” là lý do chính để không có tài khoản. Đáng lưu ý là tỷ lệ này tăng so với năm 2017 (14,8%). Điều đó cho thấy nghịch lý là mặc dù thu nhập của nhóm này có sự cải thiện, song qua thời gian khoảng cách giữa họ với các tổ chức tài chính lại kéo dài ra do sự cách trở về địa lý không thể cải thiện.

Để nhóm yếu thế không còn “vô hình”

Sự cách trở về địa lý xuất phát từ hạn chế trong việc tổ chức mạng lưới của các tổ chức tài chính, tín dụng truyền thống. Mặc dù các tổ chức này đã tận dụng rất nhanh thành tựu của cuộc CMCN 4.0 để đem lại những lợi ích tốt hơn cho khách hàng, nhưng nút thắt lại là tổ chức bộ máy và cách vận hành bộ máy. Các ngân hàng truyền thống hoạt động trên cơ sở mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch, trong khi việc vận hành và duy trì các chi nhánh, phòng giao dịch này rất tốn kém do chi phí mặt bằng, vận hành cơ sở vật chất, nhân công và rất nhiều các chi phí liên quan khác… khiến việc phát triển và duy trì mạng lưới là một bài toán khó.

Ở những khu vực vùng sâu, vùng xa, nơi mà khoảng cách và mật độ dân cư rất thưa thớt, các nhu cầu về dịch vụ tài chính chủ yếu chỉ dừng lại ở các hoạt động thanh toán cơ bản thông qua tài khoản thanh toán cơ bản nhất. Các giao dịch như vậy có lợi nhuận biên rất thấp nên việc cân đối giữa lợi nhuận và chi phí vận hành một chi nhánh ở vùng sâu, vùng xa trở thành bài toán khó với các TCTD truyền thống. Để khắc phục tình trạng trên, đã có một số ngân hàng thử nghiệm hệ thống đại lý nhưng hiệu quả kinh tế không như kỳ vọng. Đó là chưa kể đa phần khách hàng ở địa bàn vùng sâu, vùng xa thường không đủ tiêu chuẩn tiếp cận ngân hàng do nguồn thông tin để “chấm điểm” khách hàng thiếu hụt, thu nhập thấp, không thường xuyên, không ổn định,…

Số liệu của WB cũng cho thấy, về hoạt động thanh toán, nếu tỷ lệ trung bình cả nước thanh toán qua các TCTD và trung gian thanh toán đạt tới hơn 23% thì đối với nhóm thu nhập thấp, tỷ lệ này chỉ là 2,9%, trong khi thanh toán tiền mặt là 51,2%. Như vậy, nhóm thu nhập thấp nhất vẫn chủ yếu sử dụng tiền mặt để thanh toán cho các giao dịch hàng ngày và họ cũng ít thực hiện các giao dịch thanh toán qua kênh kỹ thuật số hơn so với các nhóm thu nhập cao hơn. Do các nhóm đối tượng này còn tương đối “vô hình” trong mắt các tổ chức tài chính, tín dụng truyền thống, nên việc phát triển các dịch vụ tài chính cá nhân đối với các nhóm này chưa được chú trọng.

Mặc dù vậy, nhu cầu tiếp cận dịch vụ tài chính hiện đại, chính thức của các nhóm này trên thực tế là có. Dù chưa có thống kê chính thức, song có thể thấy tỷ lệ người thu nhập thấp có nhu cầu vay mượn phục vụ chi tiêu đột xuất vẫn là một con số lớn. Đây là “mảnh đất màu mỡ” để các loại hình tín dụng đen có đất hoạt động và trở thành điểm nóng trong thời gian vừa qua. Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay, nhóm có thu nhập thấp nhất vốn là đối tượng mục tiêu của Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, lại là nhóm gặp nhiều thách thức và khó khăn hơn cả trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính chính thức, hiện đại.

Để thực hiện tốt Chiến lược, đảm bảo mục tiêu “không bỏ ai lại phía sau”, cần tạo mọi điều kiện giúp các đối tượng yếu thế có khả năng tiếp cận với các kênh “tín dụng trắng”. Đó là các kênh cung ứng dịch vụ tài chính chính thức, bền vững, hoạt động trong khuôn khổ của luật pháp và dưới sự quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Tháo rào cản pháp lý để tận dụng những công cụ sẵn có

Từ thực tế kết quả của 3 năm thực hiện Chiến lược, bước đầu cho thấy việc sử dụng hai công cụ là tổ chức tài chính vi mô và các công ty Fintech chính là giải pháp tốt. Với đặc điểm dựa trên nền tảng kỹ thuật số bao gồm Internet vạn vật, công nghệ không dây thế hệ 5, dữ liệu lớn (big data) và trí tuệ nhân tạo, đã hình thành nên các mô hình tổ chức tài chính hoàn toàn mới để có thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường, hướng tới thúc đẩy phát triển tài chính toàn diện, đưa dịch vụ tài chính ổn định, bền vững, chi phí hợp lý tới những phân khúc khách hàng không đủ điệu kiện hoặc không có khả năng tiếp cận được các TCTD truyền thống.

Do hoạt động trên nền tảng số nên khoảng cách địa lý đã bị xóa bỏ, việc xây dựng dữ liệu tài chính cá nhân cũng trở nên đơn giản hơn. Do cấu trúc mạng lưới của các tổ chức tài chính hoạt động trên nền công nghệ số nên chi phí vận hành thấp hơn nhiều so với các ngân hàng truyền thống, từ đó có thể chấp nhận cung ứng dịch vụ tài chính - ngân hàng với lợi nhuận biên thấp, bỏ qua khoảng cách địa lý để tạo điều kiện cho các nhóm khách hàng yếu thế (ở vùng sâu, vùng xa, thu nhập thấp, chưa có đánh giá tín nhiệm tài chính,…), làm cho quy mô cung ứng dịch vụ tài chính được mở rộng một cách nhanh chóng. Nguyên tắc hoạt động của các doanh nghiệp tài chính công nghệ hoàn toàn khác với các tổ chức tài chính truyền thống. Theo đó, các tổ chức này chấp nhận lợi nhuận nhỏ nhưng số lượng giao dịch lớn nên vẫn có đủ chi phí và lợi nhuận hấp dẫn. Với hai tệp khách hàng khác biệt, các tổ chức tài chính, tín dụng truyền thống và các fintech hoạt động trên nền tảng ứng dụng công nghệ sẽ cùng nhau vừa chia sẻ, vừa phục vụ đầy đủ các phân khúc khách hàng, đáp ứng trọn vẹn các nhu cầu về dịch vụ tài chính hiện đại. Qua đó các mục tiêu của Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia được đáp ứng một cách đầy đủ và bền vững nhất.

Cần thúc đẩy nhanh việc xây dựng khuôn khổ pháp lý riêng biệt cho các công ty Fintech để cùng với các ngân hàng truyền thống đưa các sản phẩm, dịch vụ tài chính tới các tệp khách hàng một cách thuận tiện với chi phí hợp lý thông qua ứng dụng công nghệ số. Với tỷ trọng người dân Việt Nam tiếp cận Internet trên 80%, trong đó nhóm thu nhập thấp có tới trên 60% thì dư địa để tăng tỷ lệ người trưởng thành tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ tài chính là rất lớn.

Nhìn rộng hơn, với trên 5 triệu hộ kinh doanh cá thể và khoảng gần 800.000 doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ hiện đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính, thì việc đổi mới các quy định đối với các loại hình mới tham gia vào cung ứng dịch vụ tài chính như Fintech là một giải pháp phù hợp, vừa phát triển được thị trường tài chính, vừa tạo đà tăng trưởng mà không dẫn đến sự cạnh tranh trực tiếp giữa doanh nghiệp truyền thống và doanh nghiệp công nghệ.

TS. Nguyễn Đức Kiên

Nguyên Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng

Chủ tịch Hội đồng khoa học IDS

Bài liên quan
  • Tiểu thương khó tiếp cận “vốn sạch”
    Hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể phân bố chủ yếu tại các khu vực đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM và Đà Nẵng, tạo việc làm cho gần 8,5 triệu lao động và trở thành một phần không thể thiếu trong nền kinh tế. Sự hiện diện rộng khắp này cho thấy tầm quan trọng của các tiểu thương trong việc thúc đẩy kinh tế địa phương cũng như quốc gia.

(0) Bình luận
Nổi bật Tin tức IDS
Đừng bỏ lỡ
Chiến lược tài chính toàn diện Quốc gia: "Tín dụng trắng" đẩy lùi "tín dụng đen"
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO