Phát triển Fintech thúc đẩy kinh tế số

PV| 17/10/2025 06:59

LTS - Thời gian gần đây, đã chứng kiến sự hình thành và phát triển của số lượng lớn các công ty Fintech tham gia vào nhiều mảng, lĩnh vực tại thị trường Việt Nam. Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các công ty Fintech đã gia tăng nhanh chóng từ khoảng 40 công ty vào cuối năm 2016 lên đến hơn 200 công ty ở thời điểm hiện tại.

Xin giới thiệu góc nhìn của các doanh nghiệp tiên phong trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính kỹ thuật số, góp phần đưa Việt Nam gần hơn tới mục tiêu tài chính toàn diện quốc gia.

Đồng hành cùng Chính phủ để “không ai bị bỏ lại phía sau”

Nguyễn Bá Diệp - Đồng sáng lập Tập đoàn Công nghệ Tài chính MoMo

Tại MoMo, tài chính toàn diện không chỉ là mục tiêu, mà là sứ mệnh dài lâu gắn liền với hành trình khai phá các tiềm năng phát triển kinh tế-xã hội. Hiện các dịch vụ tài chính đã chạm tới và tham gia phục vụ hơn 30 triệu khách hàng, trong đó có hàng trăm nghìn tiểu thương thuộc nhóm yếu thế, nhưng thế vẫn là chưa đủ khi còn quá nhiều người muốn được sử dụng dịch vụ và mong được phục vụ đầy đủ.

Hành trình tiếp cận nhóm khách hàng đại chúng

Dù đã có thành tựu nhất định, song tài chính toàn diện ở Việt Nam vẫn đối mặt nhiều thách thức. Việc thiếu kiến thức trong sử dụng và quản lý tài chính dẫn tới người dùng phải chịu chi phí dịch vụ cao. Nhiều người không thể tiếp cận các kênh tín dụng chính thức, đã sử dụng các dịch vụ cho vay phi chính thống mà không hiểu đúng về lãi suất và quản lý nợ gây ra thách thức đối với việc đẩy mạnh tài chính toàn diện.

Nhận thức rõ điều này, ngay từ đầu, MoMo đã xác định nhóm đối tượng mục tiêu của mình sẽ là khách hàng phổ thông và thu nhập trung bình thấp. Mọi công nghệ được ứng dụng để MoMo tiếp cận và sẵn sàng phục vụ các khách hàng mà hệ thống ngân hàng chưa phục vụ được, như nhóm cá nhân thu nhập thấp, nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs), hộ kinh doanh cá thể. Đội ngũ lãnh đạo MoMo hiểu rằng: Nếu chỉ cung cấp dịch vụ thì sẽ không đủ, mà cần làm cho thông tin tài chính trở nên dễ tiếp cận hơn, vì vậy đội ngũ phát triển sản phẩm đã ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để đơn giản hóa các giao dịch và khái niệm phức tạp cho người dùng phổ thông nhờ mô hình quản lý chi tiêu hàng tháng. Cách cung cấp các sản phẩm từ đơn giản đến phức tạp cùng hướng dẫn chi tiết, cũng giúp nâng cao nhận thức tài chính và đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

Với vị thế là nền tảng thanh toán số hàng đầu Việt Nam, hiện nay MoMo chiếm hơn 60% thị phần theo tổng số giao dịch qua Ví điện tử năm 2023 của Ngân hàng Nhà nước.

MoMo đã phát triển các nền tảng tài chính số và ứng dụng quản lý dòng tiền, giúp SMEs, hộ kinh doanh có thể quản lý tài chính hiệu quả hơn. (Nguồn MoMo)

MoMo đã phát triển các nền tảng tài chính số và ứng dụng quản lý dòng tiền, giúp SMEs, hộ kinh doanh có thể quản lý tài chính hiệu quả hơn. (Nguồn MoMo)

Nỗ lực kết nối và khai mở ngành kinh doanh mới

Không chỉ vậy, MoMo còn chú trọng xây dựng hệ sinh thái số, kết nối các ngành kinh doanh truyền thống với công nghệ hiện đại, với hơn 500.000 doanh nghiệp, cửa hàng, siêu thị, nhà hàng, bệnh viện, trường học… từ thành thị đến nông thôn, giúp các đơn vị này chuyển đổi số quy trình thanh toán, quản lý bán hàng và chăm sóc khách hàng. Nhờ đó, MoMo không chỉ tối ưu vận hành mà còn tiếp cận được nguồn khách hàng trẻ, yêu thích công nghệ.

Bên cạnh đó, MoMo chủ động khai phá các lĩnh vực kinh doanh mới như bảo hiểm số, đầu tư vi mô, thanh toán hóa đơn tiện ích, và gần đây nhất là kết nối dịch vụ y tế, giáo dục, du lịch trực tuyến. Chính nhờ sự đa dạng, liên kết chặt chẽ này, nền tảng MoMo không chỉ là công cụ thanh toán đơn thuần, mà đã trở thành “cầu nối” cho các ngành kinh tế truyền thống và hiện đại, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế số quốc gia.

Hiện nay, mô hình mà các fintech tại Việt Nam đang phát triển tuy có sự khác biệt so các quốc gia trong khu vực như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia… song đều có điểm chung là kết hợp dịch vụ tài chính với tất cả các dịch vụ thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày của người tiêu dùng. MoMo đã phát triển các nền tảng tài chính số và ứng dụng quản lý dòng tiền, giúp SMEs, hộ kinh doanh có thể quản lý tài chính hiệu quả hơn. Các công cụ tài chính số, mô hình quản lý bán hàng (POS) số hóa, cũng đã được MoMo triển khai, giúp nhóm này tiếp cận các dịch vụ tài chính một cách thuận tiện và nhanh chóng, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh và mở rộng thị trường.

Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia là chủ trương lớn mở đường cho các fintech phát triển. Đối với các fintech như MoMo, việc tiếp cận khu vực kinh tế phi chính thức vừa giải quyết được bài toán tài chính tổng quát và vừa mở ra “đại dương” mới cho dịch vụ tài chính thay vì chỉ tập trung một số nhóm nhất định như trước đây. Trong tương lai, MoMo cam kết không ngừng đổi mới sáng tạo, mở rộng hệ sinh thái, đồng hành cùng Chính phủ và các đối tác để hiện thực hóa mục tiêu tài chính toàn diện - “không ai bị bỏ lại phía sau” trên hành trình phát triển kinh tế số của Việt Nam.

Các fintech Việt không chỉ đơn thuần làm công việc số hóa các giao dịch tài chính, mà còn đưa cả hệ sinh thái lưu thông tiền mặt lên môi trường kỹ thuật số, thực hiện trên nền tảng trực tuyến.

Tối ưu hóa giải pháp hướng đến nhóm yếu thế

Lê Mạnh Linh - Quyền Tổng Giám đốc EVF

Hợp tác của EVF với nền tảng “Mua Trước, Trả Sau” của Fundiin mở rộng khả năng tiếp cận tài chính cho người tiêu dùng.

Đòn bẩy chuyển đổi số và tài chính toàn diện

Là tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính có uy tín trên thị trường, những năm gần đây EVF liên tục mở rộng các sản phẩm tài chính thông qua các nền tảng số, đặc biệt là sản phẩm ứng dụng trên điện thoại di động thông minh. Nhờ chủ động ứng dụng nhiều công nghệ tiên tiến như: eKYC, mobile app, cho vay trực tuyến, xử lý dữ liệu mở, hóa đơn điện tử…, công ty đã giảm chi phí giao dịch, tăng tính minh bạch và tối ưu hóa quy trình tiếp cận vốn. Nhờ đó, các sản phẩm và dịch vụ này dần hiện diện rộng rãi tại nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước, đặc biệt ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nơi mà người dân và hộ kinh doanh thường gặp rào cản tiếp cận vốn ngân hàng truyền thống. Đồng thời, các sản phẩm tài chính số của EVF còn được cá nhân hóa, phù hợp đặc thù hoạt động của từng nhóm khách hàng, từ bổ sung vốn lưu động cho doanh nghiệp nhỏ đến bao thanh toán trực tuyến với hạn mức 3-4 tỷ đồng, xét duyệt hoàn toàn online.

1753150252252.png
Hợp tác của EVF với nền tảng "Mua Trước, Trả Sau" của Fundiin mở rộng khả năng tiếp cận tài chính cho người tiêu dùng.

Đặc biệt, các chương trình liên kết với đối tác công nghệ số giúp khách hàng không chỉ vay vốn mà còn số hóa hoạt động quản lý bán hàng, điều hành kinh doanh, một bước tiến thực chất trong hành trình chuyển đổi số của khu vực kinh tế phi chính thức.

Gói giải pháp tài chính cho nhóm khách hàng yếu thế

Nhằm góp phần vào quá trình hiện thực hóa mục tiêu đạt ít nhất hai triệu doanh nghiệp vào năm 2030, EVF đã chủ động xác định lại nhóm khách hàng trọng tâm là các hộ kinh doanh nhỏ lẻ hiện vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận dịch vụ tài chính hiện đại.

EVF còn đặt mục tiêu gắn việc chuyển đổi số với quá trình nâng cấp hộ kinh doanh lên doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs); cung cấp các gói vay đa dạng, dịch vụ quản lý tài chính qua các ứng dụng trên điện thoại thông minh, từ đó nâng cao năng lực kiểm soát dòng tiền, tiết giảm chi phí vận hành.

EVF cũng đóng vai trò là cầu nối giữa các tổ chức tài chính có nguồn vốn ưu đãi, vốn xanh, vốn quốc tế và vốn tài trợ cho doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ, với các hộ kinh doanh đang tìm kiếm cơ hội phát triển bền vững.

Kinh doanh có trách nhiệm - phát triển bền vững

EVF xác định phát triển cộng đồng và bảo vệ môi trường là trách nhiệm song hành với hoạt động kinh doanh. Công ty thường xuyên ký kết hợp tác chiến lược với các tổ chức phi lợi nhuận, doanh nghiệp xã hội và nền tảng fintech để triển khai các chương trình chia sẻ kiến thức tài chính, hỗ trợ đối tượng khó khăn và lan tỏa tư duy kinh doanh bền vững; đồng hành tổ chức các hội thảo, tọa đàm chuyên đề để tư vấn miễn phí cho doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh; tích cực tham gia các chương trình quốc gia nhằm tăng cường năng lực số cho các khu vực khó khăn, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền.

Có thể nói, thành công của EVF không chỉ nằm ở các chỉ số tăng trưởng hay hiệu quả vận hành, mà còn thể hiện ở cách công ty cụ thể hóa các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước bằng hành động thực tế, có chiều sâu, có trọng tâm và có trách nhiệm với cộng đồng.

Có thể EVF chưa phải là lời giải hoàn chỉnh cho mọi vấn đề của tài chính toàn diện, nhưng là một minh chứng rõ ràng rằng: Với tinh thần dấn thân, với hệ thống công nghệ phù hợp và một đội ngũ tin vào giá trị dài hạn, mọi tổ chức có thể tạo ra tác động tích cực cho xã hội.

Tài chính toàn diện không thể chỉ dừng lại ở các khẩu hiệu đẹp hay những bản kế hoạch. Nó đòi hỏi sự kiên trì, đầu tư bài bản vào công nghệ, nhân sự và đặc biệt là tư duy đồng hành với nhóm đối tượng ít được tiếp cận các dịch vụ tài chính chính thống.

Dữ liệu phi tài chính - Lối đi mới trong đánh giá tín dụng

Chun Henry Hyunwoo - Tổng Giám đốc Công ty Thông tin tín dụng NICE

Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để học hỏi và từng bước hình thành hệ sinh thái dữ liệu tín dụng hiện đại, minh bạch và bao trùm. Kinh nghiệm từ Hàn Quốc cho thấy, việc khai thác và phân tích các đầu mục dữ liệu phi tài chính như: doanh thu tại điểm bán (POS), giao dịch thẻ hay thông tin hành chính, có thể mở ra cơ hội tiếp cận vốn cho hàng triệu hộ kinh doanh.

Tập trung vào khung pháp lý, hạ tầng dữ liệu

Trước đây, việc cho vay theo phương thức truyền thống khiến Hàn Quốc gặp khó khăn khi đưa vốn đến với khu vực doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh cá thể. Tuy nhiên, hiện đã có chuyển biến rõ rệt khi Hàn Quốc sử dụng dữ liệu phi tài chính để phục vụ đánh giá tín dụng. Đây cũng là hướng đi mà nhiều quốc gia phát triển đang triển khai và ứng dụng.

Tại Hàn Quốc, mô hình này được triển khai rộng rãi trong thời gian gần đây với các nguồn dữ liệu được sử dụng rất đa dạng, bao gồm: doanh thu POS, thông tin giao dịch thẻ, dữ liệu hành chính, cùng với các chỉ số phản ánh hoạt động kinh doanh thực tế. Việc tích hợp và phân tích những dữ liệu này giúp các tổ chức tài chính có thêm cơ sở đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, ngay cả khi chưa có lịch sử tín dụng hay tài sản bảo đảm.

Thành công của mô hình tại Hàn Quốc gắn liền với sự phát triển của khung pháp lý và hạ tầng dữ liệu quốc gia. Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành cơ chế quản lý, chia sẻ và ẩn danh hóa dữ liệu, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng, công ty thông tin tín dụng hợp pháp khai thác, phân tích và cung cấp dịch vụ trên nền tảng dữ liệu lớn.

Nhờ đó, Hàn Quốc đã mở rộng đáng kể khả năng tiếp cận tín dụng cho hàng triệu hộ kinh doanh và doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời hỗ trợ hệ thống ngân hàng kiểm soát tốt hơn rủi ro nợ xấu. Cách làm này cũng thúc đẩy hình thành một hệ sinh thái dữ liệu thống nhất, trong đó các tổ chức tài chính, cơ quan quản lý và doanh nghiệp công nghệ cùng tham gia chia sẻ, chuẩn hóa và khai thác dữ liệu vì mục tiêu chung là phát triển tài chính toàn diện.

Trong kỷ nguyên kinh tế số, dữ liệu trở thành yếu tố cốt lõi giúp nâng cao năng lực quản trị, mở rộng cơ hội tiếp cận tài chính cho người dân, doanh nghiệp.

Cơ hội từ mở rộng hợp tác quốc tế

Tại Việt Nam, việc sử dụng dữ liệu phi tài chính trong chấm điểm tín dụng đang được quan tâm, phù hợp định hướng chuyển đổi số quốc gia và mục tiêu mở rộng tài chính bao trùm. Dù vẫn còn phân tán, thiếu chuẩn hóa, kết nối, song các nguồn dữ liệu như doanh thu POS, hóa đơn điện tử, dữ liệu hành chính hay thông tin thanh toán điện tử đang được hình thành nhanh chóng. Và khung pháp lý về chia sẻ, bảo mật, sử dụng dữ liệu phi tài chính cũng đang dần hoàn thiện.

Hiện Việt Nam có điều kiện để phát triển hướng đi này khi cơ sở dữ liệu quốc gia ngày càng được mở rộng, hạ tầng thanh toán số phát triển mạnh và các công ty thông tin tín dụng đang tích cực tìm hiểu, đề xuất các mô hình phù hợp thực tiễn. Trên nền tảng đó, các cơ quan quản lý, tổ chức tín dụng và doanh nghiệp công nghệ có thể cùng nhau hình thành hệ sinh thái dữ liệu tín dụng hiện đại, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro, thúc đẩy minh bạch tài chính và mở rộng cơ hội tiếp cận vốn cho hàng triệu hộ kinh doanh.

Với nền tảng công nghệ vững chắc và kinh nghiệm lâu năm, NICE Information Service đang xúc tiến xin cấp giấy phép hoạt động cung ứng thông tin tín dụng tại Việt Nam và hy vọng có thể trở thành đối tác chiến lược trong hành trình xây dựng hệ thống thông tin tín dụng thế hệ mới cho Việt Nam, đóng góp vào công cuộc hiện đại hóa chuyên môn đánh giá tín dụng, quản trị rủi ro và mở rộng cơ hội tiếp cận tài chính cho người dân và doanh nghiệp.

780ddaea79be438e92e55cfbda2c4b5f-20964.jpg
Kinh nghiệm từ Hàn Quốc cho thấy, việc khai thác và phân tích các đầu mục dữ liệu phi tài chính có thể mở ra cơ hội tiếp cận vốn cho hàng triệu hộ kinh doanh.

Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đổi mới bán lẻ và chuyển đổi số

Kozo Mizushima, Tổng giám đốc Sojitz Việt Nam

Đón đầu chuyển đổi số, Sojitz đã đầu tư vào Finviet, hỗ trợ hàng nghìn cửa hàng bán lẻ nhỏ với các hệ thống thanh toán không tiền mặt và đặt hàng trực tuyến sáng tạo. Trong tương lai, Sojitz dự định thúc đẩy tăng trưởng hơn nữa bằng cách tích hợp các giải pháp số vào chuỗi cung ứng và hoạt động bán lẻ, nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng kinh tế bền vững và bao trùm tại Việt Nam cũng như khu vực ASEAN.

Lịch sử và hoạt động bán lẻ của Sojitz tại Việt Nam

Sojitz bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ năm 1986, là công ty phương Tây đầu tiên mở văn phòng đại diện tại Hà Nội, đóng vai trò sớm trong phát triển kinh tế Việt Nam sau chiến tranh. Qua nhiều năm, Sojitz tham gia đa dạng các lĩnh vực như năng lượng, hạ tầng và bán lẻ, góp phần vào các dự án trọng điểm như nhà máy điện Phú Mỹ 3, nhà máy IPP đầu tiên của Việt Nam có vốn đầu tư nước ngoài.

Gần đây, Sojitz mở rộng hoạt động trong ngành bán lẻ tại Việt Nam, hợp tác phát triển các mô hình bán lẻ hiện đại như cửa hàng tiện lợi và logistics chuỗi lạnh. Các doanh nghiệp thương mại vừa và nhỏ (SMEs), hộ kinh doanh (GT) đóng vai trò thiết yếu trong lĩnh vực bán lẻ, đặc biệt ở các thị trường mới nổi như Việt Nam. Thực tế, GT chiếm khoảng 80% thị trường bán lẻ Việt Nam. Mạng lưới phân phối này có cấu trúc đa tầng và phân mảnh do thiếu chuyển đổi số, gây khó khăn cho các nhà sản xuất và nhà bán lẻ, đặc biệt là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài.

Chuyển đổi số (DX) là yếu tố then chốt giúp các SMEs, hộ kinh doanh này duy trì tính cạnh tranh. Qua việc áp dụng các công nghệ số để tối ưu hóa tồn kho, chuỗi cung ứng và tương tác khách hàng, doanh nghiệp GT có thể tăng đáng kể hiệu quả hoạt động và chất lượng dịch vụ. Chính phủ Việt Nam tích cực hỗ trợ các chuyển đổi này nhằm xây dựng một xã hội số giai đoạn 5.0, tích hợp công nghệ số hiện đại vào tất cả các ngành công nghiệp.

Đầu tư của Sojitz vào Finviet - doanh nghiệp fintech hàng đầu Việt Nam

Tháng 4/2024, Sojitz đầu tư vào Công ty TNHH Công nghệ Finviet, một nền tảng chuyển đổi số bán lẻ phát triển nhanh tại Việt Nam. Finviet cung cấp nền tảng ứng dụng thanh toán không tiền mặt và hệ thống đặt hàng trực tuyến dành cho các cửa hàng bán lẻ nhỏ, chiếm khoảng 80% thị trường bán lẻ Việt Nam, chủ yếu là các cửa hàng gia đình. Sản phẩm chủ lực, ứng dụng ECO Merchant, giúp các cửa hàng truyền thống số hóa quy trình đặt hàng đa dạng sản phẩm và theo dõi đơn hàng theo thời gian thực. Ứng dụng đã được hơn 100.000 cửa hàng trên toàn quốc sử dụng rộng rãi.

Finviet đã xây dựng thành công nền tảng công nghệ hỗ trợ chuỗi cung ứng từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng (M2C), tận dụng dữ liệu và công nghệ số để tối ưu phân phối từ nhà sản xuất đến đại lý bán buôn, bán lẻ và cuối cùng là khách hàng. Điều này giúp giảm thiểu các trở ngại như giao hàng chậm và đặt hàng thủ công thường gặp trong mạng lưới truyền thống. Finviet đóng vai trò trung tâm trong chuyển đổi số hệ sinh thái bán lẻ khi hỗ trợ các cửa hàng nhỏ về dịch vụ tài chính kỹ thuật số như cho vay, thanh toán, phục vụ nhu cầu của nhóm người dùng chưa tiếp cận các dịch vụ tài chính truyền thống tại theo các mục tiêu của Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia.

70632.jpg
Chuyển đổi số là yếu tố then chốt giúp các SMEs, hộ kinh doanh này duy trì tính cạnh tranh.

Cam kết phát triển xã hội và tương lai kinh doanh

Đầu tư của Sojitz thúc đẩy phát triển xã hội bằng việc cải thiện cơ hội sinh kế và hỗ trợ phúc lợi cộng đồng. Việc đầu tư vào Finviet đã tạo điều kiện để hàng nghìn cửa hàng bán lẻ nhỏ sử dụng công cụ số, khả năng đặt hàng trực tuyến và phương thức thanh toán tiện lợi. Sự hòa nhập công nghệ này giúp các hộ kinh doanh nhỏ, lẻ tham gia tích cực vào nền kinh tế số.

Với chiến lược tập trung vào phát triển bền vững và đổi mới sáng tạo, Sojitz cũng đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực và mô hình kinh doanh mới nhằm góp phần tiến bộ xã hội kinh tế lâu dài tại Việt Nam. Danh mục đầu tư đa dạng và cam kết về hạ tầng số của Sojitz hoàn toàn phù hợp với lộ trình hướng tới nền kinh tế hiện đại và tài chính toàn diện của Việt Nam. Mở rộng các dự án chuyển đổi số bán lẻ với Finviet, Sojitz dự kiến thúc đẩy DX qua việc tích hợp nền tảng đặt hàng trực tuyến của Finviet với chuỗi cung ứng hiện có.

Kế hoạch trung hạn của công ty đặt mục tiêu mở rộng, gắn kết hơn nữa hoạt động phân phối, bán lẻ, sản xuất và logistics đồng thời cải cách chiến lược giá và nâng cao hiệu quả vận hành để thích ứng với điều kiện kinh tế. Ngoài bán lẻ và fintech, Sojitz cũng hoạt động chủ động trong các lĩnh vực hạ tầng, năng lượng và sản xuất tại Việt Nam, khẳng định cam kết lâu dài với thị trường.

Đầu tư vào công nghệ số để chuyển đổi chuỗi cung ứng là trọng tâm chiến lược trong tương lai của Sojitz, đặt sự hội tụ giữa hoạt động thương mại truyền thống và hạ tầng số hiện đại nhằm nâng cao sức cạnh tranh. Về tổng thể, các khoản đầu tư đa ngành của Sojitz không chỉ thúc đẩy chuyển đổi số, tăng trưởng kinh tế - xã hội bền vững mà còn thể hiện cách tiếp cận toàn diện vượt ra ngoài mục tiêu lợi nhuận đơn thuần.

Sojitz là tập đoàn thương mại tổng hợp hàng đầu của Nhật Bản với hơn 160 năm lịch sử, đã đóng vai trò tiên phong trong sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam kể từ khi thành lập văn phòng đại diện đầu tiên tại Hà Nội vào năm 1986. Thông qua các khoản đầu tư đa dạng trong các lĩnh vực năng lượng, hạ tầng, bán lẻ và công nghệ số, Sojitz đã góp phần đáng kể vào quá trình hiện đại hóa và phát triển công nghiệp của Việt Nam.

Đột phá công nghệ kết nối nhãn hàng và hệ thống bán lẻ

Nguyễn Thanh Hiển - Tổng Giám đốc Finviet

Quá trình chuyển đổi từ hộ kinh doanh thành doanh nghiệp chính thức vẫn còn nhiều hạn chế do các rào cản về pháp lý, tài chính và công nghệ. Hệ quả là nhiều hộ kinh doanh vẫn cầm chừng, không thể lớn được.

Cơ hội đột phá cho hộ kinh doanh

Trước đây, chuyện kinh doanh của chị H - một chủ cửa hàng bán lẻ tại Ngũ Hành Sơn (TP Đà Nẵng) chủ yếu dựa vào ghi chép bằng sổ tay, kể cả vốn vay và lời lãi. Sau sáu tháng dùng POS ECO và hóa đơn điện tử, doanh thu minh bạch, dữ liệu giao dịch kết nối sang ngân hàng, chị H. đã được ngân hàng SHB cấp hạn mức tín dụng 200 triệu đồng, lãi suất chỉ bằng một phần ba so với trước. Nhờ tích hợp ECO Pay, 70% giao dịch được chuyển sang thanh toán điện tử... Đó là sự thay đổi toàn diện, và là lần đầu tiên chị H. cảm thấy mình “được công nhận” trong hệ thống tài chính chính thống.

Chị H. chỉ là một trong số hàng nghìn khách hàng của Công ty cổ phần công nghệ Finviet (Finviet), sau khi bắt tay vào số hóa để đưa mọi hoạt động truyền thống lên nền tảng trực tuyến và tiếp cận với dịch vụ tài chính hiện đại, cùng hàng loạt dịch vụ gia tăng khác. Finviet đã phát triển các ứng dụng hỗ trợ thu chi, quản lý dòng tiền, vận hành hiệu quả cho điểm bán lẻ và giảm phụ thuộc vào tiền mặt giúp tăng độ minh bạch tài chính, giảm rủi ro thất thoát, nâng cao khả năng kiểm soát tài chính và hướng tới phát triển bền vững.

Ngay từ những ngày đầu, Finviet tập trung nghiên cứu và phát triển nền tảng công nghệ ECO - kết nối đa chiều, thúc đẩy chuyển đổi số. Mô hình M2C kết hợp fintech B2B2C của Finviet giúp số hóa toàn bộ chuỗi cung ứng từ nhà sản xuất, nhãn hàng đến nhà phân phối và tiệm tạp hóa truyền thống, đồng thời tích hợp các giải pháp thanh toán không tiền mặt như: ví điện tử, QR Code, POS. Nhờ đó, năng lực quản trị ngành bán lẻ, minh bạch và hiệu quả vận hành tài chính tại các điểm bán lẻ được cải thiện rõ rệt.

Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, Finviet nổi bật là fintech tiên phong với hệ sinh thái công nghệ toàn diện, tối ưu hóa chuỗi giá trị từ nhà sản xuất, nhãn hàng đến từng điểm bán lẻ truyền thống. Finviet cung cấp các giải pháp quản lý bán hàng, tồn kho, ứng vốn kinh doanh, cho vay siêu nhỏ, hỗ trợ tiệm tạp hóa, đại lý vượt qua rào cản vốn lưu động. Nhờ dữ liệu từ nền tảng ECO, các hộ bán lẻ dễ dàng tiếp cận nguồn tài chính chính thống, minh bạch...

Ứng dụng Finviet cũng là nền tảng marketing tích hợp, quảng cáo hướng đích, đo lường hiệu quả bán hàng, cập nhật tồn kho, định giá, phản hồi tiêu dùng như một kênh trade marketing hiện đại, giúp nhãn hàng mở rộng độ phủ sản phẩm toàn quốc.

ok6.jpg
Nền tảng ECO POS giúp số hóa toàn bộ chuỗi cung ứng từ nhà sản xuất, nhãn hàng đến nhà phân phối và tiệm tạp hóa truyền thống. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Finviet - cầu nối chuyển đổi số ngành bán lẻ

Nhận thấy nhu cầu thị trường, Finviet đã đầu tư cho giải pháp tài chính toàn diện, mở rộng tiếp cận vốn vay cho các hộ kinh doanh. Thông qua nền tảng số ECO, liên kết với tổ chức tín dụng, Finviet cung cấp gói vay vốn nhỏ linh hoạt, thủ tục nhanh gọn cho hộ kinh doanh. Dữ liệu tín dụng dựa trên hành vi kinh doanh thực tế giúp tăng tín nhiệm, giảm rủi ro tín dụng, tạo điều kiện hộ kinh doanh tiếp cận vốn lưu động, đầu tư mở rộng và chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp lớn hơn.

Với vai trò cầu nối chuyển đổi số, hệ sinh thái “all-in-one” của Finviet vừa phục vụ vận hành vừa củng cố khả năng cạnh tranh cho tiệm tạp hóa và nhãn hàng, giúp các hộ kinh doanh tuân thủ quy định dễ dàng.

Việt Nam hướng tới mục tiêu tăng trưởng bao trùm, bình đẳng và tiếp cận cơ hội cho mọi người dân. Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia (Chiến lược) đến năm 2025, tầm nhìn 2030 cam kết hỗ trợ chuyển đổi số, tạo điều kiện hộ kinh doanh cá thể tiếp cận công nghệ tài chính, thúc đẩy tăng trưởng bền vững.

Sau hơn 5 năm triển khai, khả năng tiếp cận sản phẩm, dịch vụ tài chính của người dân và doanh nghiệp đã tăng đáng kể, với sự đóng góp của cộng đồng fintech như Finviet. Tin rằng, với Chiến lược và tài chính số đa dạng, bình đẳng sẽ thúc đẩy nâng tầm hộ kinh doanh thành doanh nghiệp, đóng góp tích cực hơn cho phát triển bền vững đất nước. Và tài chính toàn diện không chỉ là khẩu hiệu mà là sự sống còn của hàng triệu hộ kinh doanh cá thể Việt Nam.

Việc bổ sung, hoàn thiện chính sách liên quan đến kế toán số, tài chính số cho hộ cá thể sẽ giúp tăng cường phối hợp giữa ngân hàng, tổ chức tín dụng và fintech, tạo mạng lưới hỗ trợ đồng bộ, bảo đảm an toàn, minh bạch cho tài chính số.

Chủ động đáp ứng nhu cầu nhân lực công nghệ tài chính trong kỷ nguyên số

PGS. TS. Phạm Thị Liên - Đại học Asia Việt Nam

TS. Hoàng Hà Anh - Đại học Swinburne Việt Nam

Sự bùng nổ của các mô hình kinh doanh mới, các dịch vụ tài chính số, AI phân tích dữ liệu tài chính, các nền tảng blockchain… trên nền tảng hội tụ công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực đang đặt ra yêu cầu cấp bách đổi mới việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.

Áp lực chuyển đổi số và nhu cầu mới về nhân lực

Theo báo cáo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) năm 2023, hơn một nửa lao động toàn cầu cần được tái đào tạo kỹ năng số trong 5 năm tới. Đối với Việt Nam, sự phát triển nhanh của các dịch vụ tài chính số đang đặt ra yêu cầu rất lớn về nguồn lực - không chỉ là nhân lực có kiến thức tài chính truyền thống mà phải có “kiến thức kép”, tức là vừa vững chuyên môn tài chính, vừa nắm rõ công nghệ và năng lực sử dụng các công cụ số hóa hiện đại. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy khoảng cách giữa nhu cầu tuyển dụng của thị trường và thực trạng đào tạo tại các trường đại học vẫn khá xa. Các kỹ năng như AI, máy học, blockchain, phân tích dữ liệu lớn (Big Data), an ninh mạng được các doanh nghiệp FinTech, tổ chức tài chính đánh giá là “xương sống”, song lại nằm ngoài chương trình chính khóa của nhiều cơ sở đào tạo.

Thị trường lao động tài chính số khát nhân lực ở hàng loạt vị trí như quản lý sản phẩm trong FinTech, khoa học dữ liệu, phân tích tài chính, quản trị thông minh, an ninh mạng, phát triển chuỗi khối... Điểm chung của những công việc này là yêu cầu về năng lực quản trị, tư duy phân tích, hiểu biết sâu về công nghệ cũng như khả năng thích ứng nhanh trong môi trường số hóa.

Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển nguồn nhân lực số, đặc biệt tập trung vào lĩnh vực công nghệ thông tin, tài chính số, trí tuệ nhân tạo và an ninh mạng.

unnamed.jpg
Một số cơ sở giáo dục công lập tại Việt Nam đã mạnh dạn mở các ngành hoặc chuyên ngành FinTech hoặc bổ sung môn công nghệ vào đào tạo tài chính.

Vai trò của ngành đào tạo và thách thức đổi mới

Phần lớn các trường đại học đều đưa yếu tố tham khảo doanh nghiệp vào khâu xây dựng chương trình. Nhưng thách thức lớn nằm ở khả năng cập nhật nhanh các nội dung công nghệ mới, đồng thời chuyển hóa ý kiến góp ý thành các môn học thực tiễn, bắt kịp tốc độ đổi mới của doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính số. Để đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực, các trường hiện đang hướng tới ba giải pháp trọng tâm: xác định chính xác nhu cầu nhân lực ngành tài chính số dựa trên khảo sát thực tế và thông tin từ doanh nghiệp; tích hợp mạnh mẽ các học phần công nghệ hiện đại như FinTech, AI, Blockchain, Big Data; trang bị kỹ năng công dân toàn cầu, ngoại ngữ, tư duy hội nhập cho sinh viên để thích ứng với môi trường làm việc xuyên biên giới.

Dẫn đầu xu hướng này, một số cơ sở giáo dục công lập như Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế Quốc dân, Học viện Ngân hàng hay các trường đại học tư nhân/ quốc tế như Đại học FPT, Swinburne Việt Nam, RMIT Việt Nam, Asia Việt Nam đã mạnh dạn mở các ngành hoặc chuyên ngành FinTech hoặc bổ sung môn công nghệ vào đào tạo tài chính. Tuy nhiên, đây mới là những bước đi đầu, chưa phổ quát và chưa tạo ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn hệ thống.

Thế giới phẳng không chỉ ở phương diện giao dịch tài chính mà còn là cơ hội nghề nghiệp. Các tập đoàn tài chính nước ngoài đặt chi nhánh tại Việt Nam, công ty FinTech Việt Nam gia tăng hoạt động toàn cầu, đòi hỏi nguồn nhân lực phải có kỹ năng giao tiếp quốc tế, am hiểu pháp lý đa quốc gia và năng lực thích ứng với văn hóa doanh nghiệp đa dạng. Sinh viên tốt nghiệp ngày nay nếu được trang bị đầy đủ kỹ năng công nghệ, ngoại ngữ, tư duy sáng tạo và kinh nghiệm thực tiễn sẽ có lợi thế vượt trội trên thị trường lao động cạnh tranh toàn cầu.

Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024, “Về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, một trong bốn nghị quyết này được xác định là “Bộ tứ trụ cột” của thể chế phát triển quốc gia cũng đặt ra yêu cầu đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng cao, phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia và vùng, hình thành các doanh nghiệp công nghệ có khả năng cạnh tranh toàn cầu, xây dựng nền kinh tế hiện đại, nền tảng vững chắc để đạt mục tiêu tăng trưởng 2 con số trong kỷ nguyên mới.

Như vậy, phát triển nhân lực tài chính số vừa là trọng tâm thực hiện nghị quyết của Đảng về chuyển đổi số, vừa là điều kiện then chốt để Việt Nam chủ động hội nhập quốc tế. Trong lần sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục đại học tới đây, có lẽ cần tạo điều kiện nhiều hơn cho các trường chủ động quyết định ngành, chuyên ngành, lĩnh vực đào tạo mới theo chương trình tiên tiến, khuyến kích hợp tác quốc tế trong đào tạo để nhanh chóng tiếp cận tri thức mới, công nghệ mới; thúc đẩy cơ chế chính sách hỗ trợ hợp tác đào tạo - doanh nghiệp, cập nhật khung chương trình theo các chuẩn kỹ năng số và sáng tạo, tăng cường giao lưu quốc tế, thực tập thực tế, mentorship để sinh viên có cơ hội rèn luyện kỹ năng hiện đại. Chỉ khi ba trụ cột là nhà trường - doanh nghiệp - cơ quan hoạch định chính sách đồng thuận phối hợp, thế hệ nhân lực mới sẽ đủ sức nắm bắt thời cơ, vươn tầm quốc tế và dẫn dắt sự phát triển của ngành tài chính số hiện đại, đưa Việt Nam trở thành điểm sáng trên bản đồ tài chính số toàn cầu.

Theo thống kê từ các mạng lưới tuyển dụng quốc tế, số lượng sinh viên ra trường đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn này chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Đặt ra câu hỏi quan trọng: chương trình đào tạo tại các trường đại học Việt Nam đã thực sự sẵn sàng cho yêu cầu mới của thị trường tài chính số trong bối cảnh Đảng ta đã xác định chuyển đổi số, phát triển kinh tế số và đổi mới sáng tạo là nhiệm vụ chiến lược.

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật Tin tức IDS
Đừng bỏ lỡ
Phát triển Fintech thúc đẩy kinh tế số
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO