“Trải qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường; đồng thời, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với tư duy tiếp cận cách làm sáng tạo nổi bật, riêng có của Việt Nam, do người Việt Nam thực hiện, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, như lời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Chưa bao giờ đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu nghèo nàn, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, GDP 26,3 tỷ USD trong những năm đầu đổi mới, trong gần 40 năm qua, quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt 430 tỷ USD năm 2023, GDP bình quân đầu người đạt mức 4.300 USD, tăng 58 lần so với những năm đầu đổi mới; tỷ lệ hộ theo chuẩn nghèo đa chiều còn 2,9%. Bên cạnh đó, từ một nền kinh tế đóng cửa khép kín, Việt Nam thành một nền kinh tế có mức độ hội nhập toàn cầu khi trở thành đối tác thương mại lớn thứ 22 toàn cầu, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2023 đạt gần 700 tỷ USD, thu hút lượng đầu tư lớn từ nước ngoài đạt 23 tỷ USD, đây là mức đầu tư cao nhất của Việt Nam từ trước đến nay, ngay cả khi các thị trường lớn bị thu hẹp và chuỗi cung ứng toàn cầu còn nhiều đứt gãy. Đây là một điểm sáng.
Cùng với quá trình cải cách và mở cửa, khả năng thích ứng và mức độ chống chịu của nền kinh tế ngày càng nâng cao. Giai đoạn vừa qua, với phương châm thích ứng an toàn, Việt Nam vững vàng vượt qua những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao và trở thành một điểm sáng về sự ổn định, phục hồi, phát triển kinh tế trong bối cảnh tình trạng trong nước và quốc tế gặp nhiều khó khăn.
Từ những chia sẻ, kinh nghiệm sinh động, phong phú của thế giới, nhất là kinh nghiệm của các quốc gia có trình độ phát triển tương đồng, gần với thực tiễn Việt Nam, cả bài học thành công và những bài học thất bại, sẽ giúp Việt Nam tìm ra giải pháp khả thi để giải quyết những khó khăn, thách thức, hạn chế, bất cập trong tiến trình đổi mới, hội nhập và phát triển.
Việc phát triển những hình thái, lĩnh vực kinh tế mới như: kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ; các ngành dịch vụ mới như: công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, năng lượng sạch; các vấn đề thúc đẩy, phát triển khu vực kinh tế tư nhân, cải cách hệ thống tài chính, quản trị quốc gia, phát triển xã hội, phân cấp, phân quyền trong tổ chức thực hiện chính sách, xây dựng thể chế liên kết phát triển vùng;… cũng là điều cần quan tâm.
Những kinh nghiệm để vượt qua các loại “bẫy” phát triển, không chỉ là “bẫy” thu nhập trung bình, mà còn là “bẫy” lao động giá rẻ, “bẫy” tăng trưởng nhưng tăng trưởng không xanh, phát triển ào ạt mà không tính đến bền vững và lâu dài, ảnh hưởng đến xã hội, môi trường… sẽ mang ý nghĩa thực tiễn trong việc hoạch định các đường lối phát triển, cải cách hệ thống chính sách, giúp Việt Nam đạt được những mục tiêu đề ra trong phát triển bền vững tầm nhìn hướng tới năm 2045”.
“Tôi rất ấn tượng về những nỗ lực của Việt Nam trong tiến trình đổi mới, đặc biệt là tốc độ tăng trưởng GDP nhanh chóng và tỷ lệ hộ nghèo suy giảm sâu, khi trước kia tỷ lệ người dân Việt Nam rơi vào tình trạng nghèo đói rất cao, hơn 20%. Cùng với đó, tuổi thọ của người dân tăng lên 76 tuổi từ mức 61 tuổi vào những năm 1970, số năm người dân tham gia chương trình học tập các cấp cũng gia tăng nhanh chóng. Với tư cách một chuyên gia kinh tế, tôi rất vui mừng trước những tác động tích cực của quá trình đổi mới và phát triển kinh tế giúp xóa nhòa khoảng cách giữa Việt Nam với phần còn lại của thế giới.
Với những nỗ lực về tự do hóa thương mại, Việt Nam tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007, điều này giúp tăng cường hơn nữa vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, đưa Việt Nam trở thành một trung tâm xuất khẩu. Đến nay, tỷ lệ thương mại so với GDP của Việt Nam đạt tới hơn 200%, điều này minh chứng Việt Nam là một trong những quốc gia có độ mở lớn nhất trên toàn thế giới.
Việt Nam ngày càng thể hiện vai trò trong các chuỗi giá trị toàn cầu và đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa ra nhiều quốc gia trên thế giới. Điều then chốt là chúng ta không chỉ nhìn lại quá khứ đã làm được gì mà phải hướng tới tương lai, giúp kinh tế của Việt Nam phát triển hơn nữa và để tăng trưởng xuất khẩu có thể định hình cho sự phát triển của Việt Nam. Khi đó, chúng ta phải quan tâm hơn về chất lượng của xuất khẩu chứ không chỉ là số lượng hay sản phẩm xuất khẩu.
Trước kia, Việt Nam tập trung nhiều vào xuất khẩu dựa vào những ngành thâm dụng lao động, phát huy lợi thế về lao động và chi phí sản xuất thấp. Số liệu thống kê cho thấy khối lượng xuất khẩu tăng 10 lần trong vòng 20 năm vừa qua, nhưng giá trị trung bình cho mỗi đơn vị xuất khẩu chỉ tăng hai lần.
Để đạt mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao, Việt Nam cần thúc đẩy tăng trưởng và khẳng định được vai trò quan trọng hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu, xuất khẩu những sản phẩm có giá trị cao hơn. Theo đó, Việt Nam cần hướng tới xuất khẩu những ngành hàng có giá trị cao như chip bán dẫn, hay đẩy mạnh phát triển các ngành sản xuất chế tạo có quy mô lớn như: linh kiện điện tử, da giày. Nhờ đó, Việt Nam có thể đóng vai trò quan trọng hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu”.
“Điểm lại năm thành tựu đặc sắc nhất sau gần 40 năm đổi mới, thứ nhất, Việt Nam đổi mới tư duy từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường. Tư duy chuyển dịch có tiến, có lùi, nhưng trong cả quá trình gần 40 năm, tư duy quản lý nền kinh tế chuyển dịch theo hướng thị trường, đây là dấu ấn rất lớn và có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phát triển.
Thứ hai, quan trọng không kém là Việt Nam định vị lại vai trò của Nhà nước, thay vì phát triển kinh tế quốc doanh là chủ đạo, Nhà nước giảm sự tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh tế, tăng cường hơn trong vai trò quản lý, xây dựng hệ thống pháp luật và chính sách giúp nền kinh tế vận hành hiệu quả.
Thứ ba, chú trọng chính sách phát triển kinh tế tư nhân. Dù doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng vai trò của kinh tế tư nhân được khẳng định hơn, nhiều doanh nghiệp, tập đoàn Việt Nam bắt đầu vươn ra thị trường quốc tế.
Thứ tư, Việt Nam tiến bước dài và dũng cảm trong hội nhập quốc tế. Ngay từ thời kỳ đầu đổi mới, Việt Nam có định hướng rất rõ ràng về hội nhập kinh tế quốc tế, đến nay, giá trị thương mại gấp đôi GDP và Việt Nam chú trọng thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, có thể không nhất thiết vươn ra biển lớn ngay lập tức, nhưng doanh nghiệp Việt Nam đã tích cực tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu sau khi có doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Việt Nam hội nhập để hòa nhập vào làn sóng của kinh tế thế giới, tạo động lực phát triển nhanh hơn.
Thứ năm, gần 40 năm qua, chứng kiến khủng hoảng kinh tế châu Á, khủng hoảng tài chính toàn cầu và có những khó khăn do đại dịch Covid-19, song trong suốt quãng thời gian này, Việt Nam luôn giữ định hướng mở nhưng vẫn giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô để củng cố những kết quả đạt được, giúp Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng”.
“Việt Nam có thể giữ được tỷ lệ giảm nghèo bền vững trong nhiều năm và nhiều quốc gia sang Việt Nam học hỏi kinh nghiệm, đây là điều tôi rất tự hào. Trong giai đoạn 2012-2015 có 16 chương trình giảm nghèo nhằm hỗ trợ toàn diện mọi mặt với những nhóm dân cư đi chậm hơn trong quá trình phát triển do thiệt thòi về điều kiện địa lý, điều kiện sống hay ngôn ngữ. Thay vì giảm nghèo đơn chiều chỉ tập trung vào lĩnh vực kinh tế, Việt Nam chuyển sang giảm nghèo đa chiều trên các khía cạnh khác như y tế, giáo dục, việc làm, nước sạch.
Bên cạnh đó, Việt Nam tiếp cận thông qua giảm nghèo cộng đồng, tăng cường sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Một trong những điểm rất quan trọng trong chiến lược giảm nghèo của Việt Nam, đó chính là tạo cơ chế tham gia cũng như làm chủ của người dân, giảm sự ỷ lại, trông chờ vào bên ngoài. Các chương trình giảm nghèo kịp thời thay đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình mới.
Việt Nam tăng cường đầu tư công nhằm cải thiện khả năng tiếp cận chính sách về giáo dục, để thế hệ mới có cơ hội chuyển đổi công việc, thay đổi thu nhập và có cơ hội đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Báo cáo đánh giá giảm nghèo cho thấy rất nhiều gia đình ở khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước đều cho rằng một trong những kế sách giúp thoát nghèo, vượt qua vòng đói nghèo luẩn quẩn, chính là giáo dục. Chiến lược đầu tư giáo dục đúng đắn sẽ tạo “cần câu cơm” để người dân thay đổi cuộc đời và đóng góp cho đất nước, đây cũng là điểm mấu chốt cần chú trọng giai đoạn tới.
Các chính sách còn đảm bảo công bằng trong tiếp cận về việc làm, giảm định kiến giới, khuyến khích cả hai giới tham gia vào thị trường lao động, tạo ra động lực tăng trưởng cho Việt Nam. Cơ hội tiếp cận việc làm bình đẳng còn tạo niềm tin và sự hy vọng của người dân vào cơ hội phát triển trong tương lai nếu cố gắng và nỗ lực.
Ngoài ra, Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc mở rộng các quan hệ đối tác chiến lược, lắng nghe các quan điểm khác nhau của các tổ chức quốc tế để tận dụng các bài học kinh nghiệm, từ đó, tăng cường vai trò và vị thế của Việt Nam trên diễn đàn quốc tế và giúp nước ta tăng trưởng, giảm nghèo bền vững”.
“Trong thời gian tới, để cải cách hệ thống tài chính, phải quyết tâm loại bỏ tình trạng sở hữu chéo chứ không chỉ đơn thuần là xử lý nợ xấu và đổi mới hệ thống quản trị. Quan trọng hơn, đó là xử lý các ngân hàng yếu kém dính sở hữu chéo. Về thị trường vốn, do hệ lụy để lại từ phát triển nóng và đặc biệt là sự thao túng của các cổ đông lớn thời gian qua, thời gian tới, Việt Nam cần tập trung tái cấu trúc thị trường vốn về vấn đề thực thi chính sách chứ không phải về khung pháp lý. Thay vì vẫn chấp nhận lũng đoạn có mức độ trên thị trường vốn, cần phải chuyển hướng theo kinh nghiệm quốc tế, đây là điều không mới, đó là bảo vệ các nhà đầu tư và các cổ đông thiểu số.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh cải cách, đổi mới và quyết tâm cao hơn trong việc triển khai và thực thi các công cụ quản lý và điều hành dựa vào thị trường. Sau gần 40 năm, trình độ phát triển của hệ thống tài chính Việt Nam cũng như năng lực điều hành, quản trị đã đủ để chuyển sang sử dụng các công cụ điều hành dựa vào thị trường. Trong điều hành chính sách tiền tệ, cần loại bỏ các công cụ kiểm soát bằng hành chính, không kiểm soát lãi suất và tăng trưởng tín dụng; đồng thời, phải đảm bảo tính an toàn của hệ thống tài chính theo chuẩn quốc tế. Thời gian qua, Việt Nam sẽ thành công hơn nếu có một quyết tâm lớn hơn khi cơ quan điều hành bắt buộc các tổ chức tín dụng phải đáp ứng tiêu chuẩn Basel II.
Ngoài ra, cần quyết tâm và sớm xây dựng các khung pháp lý cho các hoạt động dịch vụ tài chính mới nổi, tập trung vào ba lĩnh vực: (i) tài chính số và ngân hàng số; (ii) tài chính xanh; (iii) phát triển thị trường giao dịch phái sinh hàng hóa”.