Năm 2024: Cẩn trọng với những rủi ro tiềm ẩn

Đặng Hương| 03/01/2024 09:57

Năm 2024, các rủi ro tiềm ẩn từ môi trường kinh tế thế giới vẫn còn hiện hữu và tiếp tục tác động tiêu cực đối với triển vọng phục hồi tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Do vậy, cùng với chính sách thúc đẩy tăng trưởng, Việt Nam cần lưu ý tới những giải pháp chống chịu với những rủi ro nhằm đảm bảo ổn định vĩ mô và tăng trưởng bền vững.

Năm 2024: Cẩn trọng với những rủi ro tiềm ẩn - Ảnh 1
Năm 2024: Cẩn trọng với những rủi ro tiềm ẩn - Ảnh 2

Năm 2023, tăng trưởng GDP của Việt Nam ước tính 5,05%. Bà đánh giá như thế nào về tốc độ tăng trưởng GDP này của Việt Nam?

Năm 2023 ghi nhận kinh tế toàn cầu tiếp tục đối mặt với một loạt khó khăn, thách thức. Những khó khăn, thách thức này đều ảnh hưởng tới nền kinh tế Việt Nam.

Theo đó, Việt Nam đã triển khai nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế. Do đó, xu hướng tích cực hơn tiếp tục được duy trì và ngày càng rõ nét vào những tháng cuối năm trong nhiều ngành và lĩnh vực. Nhờ vậy, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2023 đạt 5,05%, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục là bệ đỡ cho nền kinh tế, vừa đảm bảo an ninh lương thực vừa duy trì và phát triển xuất khẩu ổn định, tăng trưởng của khu vực đạt 3,83%; khu vực thương mại tăng trưởng 6,82% với một số ngành dịch vụ tăng trưởng ổn định, đóng góp lớn vào mức tăng chung nền kinh tế; khu vực công nghiệp, xây dựng gặp nhiều khó khăn, khi mức tăng trưởng chỉ đạt 3,74%.

Nhìn chung, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu gặp nhiều sóng gió, mức tăng trưởng của Việt Nam có thể nói là một kết quả đáng khích lệ.

Năm 2024: Cẩn trọng với những rủi ro tiềm ẩn - Ảnh 3

Những khó khăn và thách thức toàn cầu ảnh hưởng tới kinh tế Việt Nam như thế nào, thưa bà?

Ngay từ những tháng đầu năm 2023, kinh tế Việt Nam đã bị ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế thế giới đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức khiến tổng cầu suy giảm; lạm phát đã hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao; chính sách tiền tệ thắt chặt, nợ công thế giới đã tăng lên mức kỷ lục, xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine phức tạp hơn, bất ổn địa chính trị, an ninh lương thực, thiên tai, biến đổi khí hậu…, nhiều nền kinh tế là đối tác thương mại lớn của Việt Nam có mức tăng trưởng chậm lại.

Ở trong nước, các động lực truyền thống của nền kinh tế còn yếu, chưa phát huy được hiệu quả như những năm trước. Công nghiệp chế biến, chế tạo bị ảnh hưởng nhiều do sụt giảm đơn hàng, chi phí đầu vào tăng cao, thiếu thị trường xuất khẩu nên không duy trì được mức tăng trưởng cao như trước. Thu hút đầu tư nước ngoài năm 2023 chưa phát huy hiệu quả khi các nhà đầu tư chưa mở rộng quy mô đầu tư vào các dự án đang hoạt động ở Việt Nam do những khó khăn chung của kinh tế thế giới nói chung và của cộng đồng doanh nghiệp. Thặng dư thương mại đạt mức cao liên tiếp nhưng quy mô xuất nhập khẩu giảm, đây là tín hiệu không tốt, làm suy yếu hoạt động sản xuất vì nguyên vật liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất của nước ta chủ yếu là từ nhập khẩu.

Một số động lực mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chưa rõ rệt và hiệu quả. Khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực và nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội, cho tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và tăng năng suất lao động xã hội. Việc tham gia vào các hiệp định thương mại chưa phát huy được hiệu quả do còn nhiều thách thức về thuế quan, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước, gây cản trở cơ hội tiếp cận và phát triển thị trường của các doanh nghiệp. Kinh tế tư nhân tuy không ngừng lớn mạnh, là động lực quan trọng của nền kinh tế nhưng chưa phát huy được hết tiềm năng của mình, năng lực hội nhập và cạnh tranh kinh tế quốc tế còn hạn chế, mức độ tham gia sâu vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu ở mức thấp.

Năm 2024: Cẩn trọng với những rủi ro tiềm ẩn - Ảnh 4

Theo bà, đâu là những động lực giúp nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng này?

Kết quả tăng trưởng năm 2023 nhờ vào các động lực chủ yếu sau:

Một là, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm, tạo được sự ổn định nhiều mặt, kể cả đời sống người dân, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và tạo dư địa để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Hai là, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn tiếp tục khẳng định vai trò bệ đỡ của nền kinh tế đang tích cực đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.

Ba là, giải ngân vốn đầu tư công được đẩy mạnh nhờ sự vào cuộc quyết liệt từ Chính phủ tới các bộ, ngành trung ương và địa phương nhằm tháo gỡ vướng mắc cơ chế, thủ tục... Các bộ, ngành và địa phương đã chủ động tập trung triển khai phân giao kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023. Nhiều bộ, ngành, địa phương đã giao từng đầu việc cụ thể cho mỗi sở, ban, ngành, chủ đầu tư, ban quản lý dự án chịu trách nhiệm tiến độ cam kết, từ đó đã thúc đẩy tiến độ thực hiện và giải ngân vốn vốn đầu tư công từ sớm, từ xa... Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án ngay từ các tháng đầu năm.

Bốn là, hoạt động du lịch đang trên đà phục hồi mạnh mẽ tác động tới hoạt động sản xuất của các ngành liên quan. Các chính sách kích cầu tiêu dùng nội địa, thu hút khách du lịch quốc tế bằng các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch và các hoạt động xúc tiến thương mại được đẩy mạnh đã góp phần duy trì tăng trưởng của khu vực này.

Sự phục hồi của hoạt động du lịch tác động tích cực tới các hoạt động khác có liên quan như: lưu trú, vận tải, ăn uống, vui chơi giải trí, bán lẻ,... tạo công ăn việc làm cho lao động tạm thời, mùa vụ trong bối cảnh sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, (một số công việc của các ngành sản xuất bị cắt giảm do sản xuất để xuất khẩu giảm), giúp tạo công ăn việc làm tại chỗ cho các địa phương, góp phần đáng kể trong tăng trưởng kinh tế của ngành dịch vụ.

Năm là, Chính phủ thực hiện nhiều chính sách nhằm kích cầu tiêu dùng trong nước như cắt giảm thuế VAT 2% từ ngày 1/7/2023, tăng tiền lương cơ bản cho công chức, viên chức từ ngày 1/7/2023, tăng cường các đợt khuyến mại và giảm giá hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng. Những chính sách này đã có tác động tích cực đến tình hình kinh tế và hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, giảm lãi suất, giảm thuế thu nhập cá nhân, tăng cho vay tiêu dùng, đồng thời giãn, khoanh nợ và tăng hỗ trợ an sinh xã hội, các nhân tố này đều thúc đẩy tiêu dùng mạnh hơn.

Năm 2024: Cẩn trọng với những rủi ro tiềm ẩn - Ảnh 5

Vậy, những gam màu xám của nền kinh tế trong năm 2023 thì sao, thưa bà?

Bên cạnh những gam màu sáng, bức tranh kinh tế - xã hội năm 2023 còn xuất hiện những gam màu xám.

Đó là, thứ nhất, ngành nông nghiệp đối mặt với một số khó khăn, thách thức. Nhiều loại vật tư nông nghiệp phụ thuộc vào nhập khẩu đã làm tăng chi phí sản xuất; diện tích cây điều, cao su, hồ tiêu tiếp tục giảm do hiệu quả kinh tế không cao; giá thức ăn chăn nuôi vẫn ở mức cao; sản lượng gỗ khai thác tăng thấp do các doanh nghiệp chế biến gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm.

Thứ hai, sản xuất một số ngành công nghiệp chủ lực suy giảm chủ yếu do thiếu đơn hàng sản xuất. Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp năm 2023 ước chỉ tăng 3,02% so với năm trước, là mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2011-2023 .

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) năm 2023 ước tăng 1,5% so với năm trước (thấp hơn nhiều so với mức tăng 7,2% của năm 2022) do đơn hàng sụt giảm, kim ngạch xuất khẩu giảm. Nhiều ngành công nghiệp trọng điểm giảm so với cùng kỳ năm trước và giảm ở nhiều địa phương có quy mô công nghiệp lớn. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ tăng 1,8%, thấp nhất trong 11 năm qua; tỷ lệ tồn kho bình quân năm 2023 là 87,5%, cao nhất trong 11 năm qua, cho thấy một bộ phận doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, hàng tồn kho cao.

Thứ ba, kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2023 giảm 6,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó kim ngạch xuất khẩu giảm 4,4% trong bối cảnh chính sách tiền tệ của các quốc gia trên thế giới tiếp tục thắt chặt, tổng cầu thế giới suy giảm dẫn tới các đơn hàng xuất khẩu giảm.

Thứ tư, doanh nghiệp thành lập mới còn nhiều khó khăn trong tiếp cận vốn. Tổng vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới năm 2023 đạt 1.521,3 nghìn tỷ đồng, giảm 4,4% so với năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới năm 2023 chỉ đạt 9,6 tỷ đồng, giảm 10,8% so với năm 2022.

Thứ năm, tính đến ngày 20/12/2023, vốn đầu tư nước ngoài đăng ký điều chỉnh tăng thêm đạt 7,88 tỷ USD, giảm 22,1% so với năm trước (năm 2022 tăng 12,2%), phản ánh những khó khăn chung của kinh tế toàn cầu, cho thấy nhà đầu tư nước ngoài chưa mở rộng quy mô các dự án đầu tư hiện hữu tại Việt Nam.

Năm 2024: Cẩn trọng với những rủi ro tiềm ẩn - Ảnh 6

Với những nền tảng như vậy, bà dự báo như thế nào về tăng trưởng kinh tế trong năm 2024?

Nhìn chung năm 2024, dự báo các rủi ro tiềm ẩn từ môi trường kinh tế thế giới vẫn còn hiện hữu và tiếp tục tác động tiêu cực lên triển vọng phục hồi tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Cục diện thế giới tiếp tục chuyển động theo xu hướng “đa cực, đa trung tâm”; các nước lớn điều chỉnh chiến lược linh hoạt, phức tạp hơn, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, kiềm chế gay gắt lẫn nhau.

Hậu quả của đại dịch Covid 19 vẫn còn dai dẳng. Lạm phát ở một số nền kinh tế lớn nhiều khả năng vẫn ở mức cao, nợ công tiếp tục gia tăng; tăng trưởng thương mại toàn cầu tiếp tục xu hướng thấp, chịu ảnh hưởng từ cạnh tranh địa chính trị diễn biến căng thẳng, khó lường. Áp lực từ giá dầu thô, lương thực biến động mạnh, tăng lãi suất kéo dài ở nhiều quốc gia… Khả năng phục hồi của kinh tế toàn cầu chưa rõ ràng.

Ở trong nước, tuy thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen nhưng động lực truyền thống còn yếu, động lực mới chưa rõ ràng nên năm 2024 dự báo kinh tế Việt Nam tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Tác động từ sự suy giảm của nền kinh tế thế giới dồn nén từ thời đại dịch tới nay nhiều khả năng sẽ tiếp tục tác động đến nền kinh tế Việt Nam ít nhất trong nửa đầu năm 2024 trước khi đón nhận những dấu hiệu tích cực, khả quan hơn.

Tuy vậy, kinh tế Việt Nam sẽ vẫn có cơ hội phục hồi tích cực hơn nếu các chính sách hỗ trợ được ban hành trong năm 2023 sẽ có tác động rõ nét hơn; các động lực về đầu tư (bao gồm cả đầu tư tư nhân, FDI, đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước), tiêu dùng, du lịch và xuất khẩu tiếp tục được thúc đẩy mạnh mẽ; các vấn đề tồn đọng, bất cập kéo dài được tập trung tháo gỡ, chuyển biến tích cực hơn trong năm 2024, nhất là vướng mắc của doanh nghiệp, dự án đầu tư, thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp…

Năm 2024: Cẩn trọng với những rủi ro tiềm ẩn - Ảnh 7

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: Tiếp đà tăng trưởng tích cực trong năm 2023, hiệu quả của chiến lược phát triển nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vừa đảm bảo nguồn cung và an ninh lương thực vừa phát triển nông nghiệp, khai thác, nuôi trồng thủy sản bền vững, hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản dự báo tiếp tục ổn định. Tuy vậy, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, thời tiết biến động thất thường, ngành nông nghiệp cũng cần phải chủ động triển khai đồng bộ nhiều giải pháp hiệu quả để ứng phó.

Khu vực công nghiệp và xây dựng dự báo tiếp tục gặp nhiều thách thức trước bối cảnh kinh tế toàn cầu dự báo phục hồi chậm, nhu cầu thế giới yếu, thị trường thế giới thu hẹp, lưu thông và luân chuyển hàng hóa thương mại thế giới còn khó khăn do giá cả tăng, khan hiếm nguyên vật liệu… Đặc biệt ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong nước tiếp tục đối diện với tình trạng đơn hàng giảm, chi phí đầu vào cao. Trong nước, sức mua dự kiến vẫn chậm hồi phục; thị trường bất động sản suy giảm tiếp tục ảnh hưởng đến nhiều ngành sản xuất có liên quan.

Khu vực dịch vụ dự báo vẫn là điểm sáng trong năm 2024. Một số ngành thương mại có thể duy trì đà tăng trưởng bởi các chính sách thương mại và thúc đẩy tiêu dùng nội địa như: Vận tải hàng không, bán buôn bán lẻ, dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ tài chính, dịch vụ du lịch... Các ngành dịch vụ phi thị trường dự báo vẫn ổn định.

Năm 2024 cũng là năm bứt phá để hoàn thành mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025. Do đó, Chính phủ, các bộ ngành, địa phương cũng sẽ dốc toàn lực cho chặng đường về đích này. Đây có thể là những thuận lợi mang tính chủ quan nhưng cũng là áp lực lớn cho nền kinh tế nước ta. Trong bối cảnh thế giới nhiều bất định, Việt Nam cần tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, đây là nền tảng quan trọng để có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng như kỳ vọng.

Năm 2024: Cẩn trọng với những rủi ro tiềm ẩn - Ảnh 8

Với triển vọng như vậy, các kịch bản kinh tế mà Tổng cục Thống kê đưa ra là như thế nào, thưa bà?

Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 103/2023/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 ban hành ngày 9/11/2023, với mục tiêu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt từ 6 - 6,5%.

Trên cơ sở số liệu năm 2023 cùng với những đánh giá khó khăn, thuận lợi của kinh tế thế giới và dự báo kinh tế Việt Nam năm 2024 qua kế hoạch sản xuất kinh doanh của các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh,… Tổng cục Thống kê sẽ sớm xây dựng kịch bản tăng trưởng kinh tế năm 2024 theo từng quý để đạt mục tiêu trên.

Năm 2024: Cẩn trọng với những rủi ro tiềm ẩn - Ảnh 9

Trong các cuộc họp Chính phủ gần đây, thông điệp theo đuổi tăng trưởng cao đã nhiều lần được nhắc tới. Theo bà, để thúc đẩy tăng trưởng cao, chính sách nào cần được đẩy mạnh trong năm 2024?

Kinh tế Việt Nam càng về cuối năm 2023 càng có dấu hiệu tích cực, điều này sẽ tạo đà cho năm 2024 - năm bứt phá để hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025. Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới còn nhiều khó khăn, bất định như hiện nay, với một quốc gia có độ mở kinh tế lớn, khả năng cạnh tranh và sức chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài còn hạn chế, những yếu tố đột xuất, bất ngờ vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, khó dự báo, để đạt được mục tiêu tăng trưởng cao mà Quốc hội đã thông qua, chúng ta cần tập trung đẩy mạnh thực hiện 4 nhóm chính sách chính.

Một là, tiếp tục thúc đẩy các động lực tăng trưởng.

Năm 2024, dự báo chính sách tiền tệ tuy có chút dư địa được nới lỏng nhờ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có dấu hiệu sẽ giảm lãi suất trong năm 2024, nhưng mức độ giảm không lớn do lạm phát vẫn tiềm ẩn, vì vậy chính sách tiền tệ trong nước vẫn nhạy cảm; hơn nữa, lãi suất hiện nay ở mức khá thấp, khó giảm thêm cho đến giai đoạn giữa hoặc cuối năm 2024. Theo đó, chính sách tài khóa với thúc đẩy đầu tư công, sử dụng thuế, phí để hỗ trợ tổng cầu, từ đó thúc đẩy tổng cung nền kinh tế vẫn là giải pháp trọng tâm 2024.

Đầu tư công vẫn luôn là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh đầu tư công, ưu tiên các dự án sắp hoàn thành, sớm đưa vào sử dụng các dự án quan trọng quốc gia, các công trình trọng điểm mang tính đột phá giúp thúc đẩy tăng trưởng GDP, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy tiêu dùng, gia tăng sự thuận tiện trong lưu thông, đẩy mạnh liên kết vùng, nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm thời gian và chi phí lưu thông hàng hóa, dịch vụ.

Theo Nghị quyết Kỳ họp thứ 6, Quốc hội đã đồng ý giảm 2% thuế giá trị gia tăng (xuống 8%) từ ngày 01/01/2024 đến hết ngày 30/6/2024. Việc giảm thuế giá trị gia tăng có phạm vi tác động rất lớn bởi hầu hết đối tượng đều có lợi: doanh nghiệp bán được hàng do chi phí đầu vào giảm, từ đó giảm giá bán, người tiêu dùng được lợi do mua hàng với giá thấp hơn trước. Trong trường hợp 6 tháng cuối năm 2024 nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, cần duy trì hỗ trợ sản xuất và tiêu dùng, có thể cân nhắc tiếp tục việc giảm thuế giá trị gia tăng này đến hết năm 2024.

Tuy nhiên, giảm thuế giá trị gia tăng cũng sẽ làm giảm đáng kể nguồn thu của ngân sách Nhà nước bởi đây là nguồn thu lớn nhất của ngân sách Nhà nước. Trong bối cảnh thu ngân sách Nhà nước đang ngày càng khó khăn thì cũng cần phải cân nhắc kỹ việc giảm thuế giá trị gia tăng.

Tiếp tục phát huy nội lực của thị trường dân số hơn 100 triệu dân bằng cách đẩy mạnh thực hiện các chính sách kích cầu tiêu dùng với các chương trình lễ hội du lịch, lễ hội mua sắm, chương trình xúc tiến thương mại thị trường trong nước, thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử để mở rộng tiêu dùng nội địa; vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam. Chú trọng đầu tư hiện đại hóa hệ thống phân phối ở vùng nông thôn, miền núi để đẩy mạnh đưa hàng Việt về nông thôn, đẩy mạnh triển khai các hoạt động kích cầu tiêu dùng nội địa tại các địa phương có các sản phẩm đặc thù, lợi thế…

Tranh thủ tối đa cơ hội, xu hướng phục hồi của các thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu, tận dụng tốt và tiếp tục thúc đẩy các hiệp định thương mại song phương và đa phương để mở rộng thị trường đầu ra cho các sản phẩm của Việt Nam.

Năm 2024: Cẩn trọng với những rủi ro tiềm ẩn - Ảnh 10

Hai là, thúc đẩy quảng bá, thu hút du khách quốc tế đến Việt Nam.

Đây là ngành kinh tế tổng hợp, có tính lan tỏa giúp phát triển một chuỗi các ngành từ lưu trú, ăn uống, vận tải, thương mại, dịch vụ khác, đồng thời làm tăng lượng ngoại tệ, giải quyết nguồn lao động tại địa phương trong nước tham gia vào chuỗi sản xuất xuất khẩu dịch vụ tại chỗ.

Ba là, thực hiện chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tiếp tục xu hướng chuyển từ thu hút bằng mọi giá sang thu hút có chọn lọc nhằm tăng năng lực sản xuất quốc gia, tính lan tỏa giữa khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với khu vực kinh tế trong nước, đặc biệt là đầu tư trong lĩnh vực mới như năng lượng tái tạo, chip bán dẫn, ngành nghề khác phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế bền vững, kinh tế xanh.

Bốn là, đối với ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản, với tình hình thế giới như hiện nay, các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam đang có nhiều lợi thế trên thị trường thế giới, biểu hiện là xuất khẩu nông, lâm nghiệp và thủy sản luôn nằm trong những mặt hàng có kim ngạch và tốc độ tăng cao của Việt Nam và dự báo năm 2024 còn nhiều cơ hội tăng trưởng xuất khẩu. Để phát huy lợi thế này, cần tập trung phát triển ngành theo chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm, tập trung vào các sản phẩm có giá trị gia tăng cao và có lợi thế xuất khẩu, đồng thời hỗ trợ trong các liên kết chuỗi, tư vấn và tìm kiếm mở rộng thị trường đầu ra.

Bài liên quan
  • Kinh tế Việt Nam, bước tiến và “nỗi lo” qua nửa nhiệm kỳ
    Kinh tế Việt Nam có những bước tiến đáng ghi nhận từ năm 2021 - thời điểm bắt đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng XIII đến nay, trong đó ngoại giao kinh tế đã tạo điều kiện để Việt Nam thu hút nhiều tập đoàn lớn trong các lĩnh vực công nghệ mới hợp tác, đầu tư.

(0) Bình luận
Nổi bật Tin tức IDS
Đừng bỏ lỡ
Năm 2024: Cẩn trọng với những rủi ro tiềm ẩn
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO