Việc giảm 50% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng nhận chuyển giao ngân hàng được kiểm soát đặc biệt giúp các ngân hàng này mở rộng tín dụng, tiết kiệm chi phí, thúc đẩy tái cơ cấu ngân hàng con. Tuy nhiên, cần nhận diện và có biện pháp kiểm soát, ngăn chặn để cơ chế hỗ trợ không bị lạm dụng.
Động thái “nới lỏng”?
Thông tư 23/2025/TT-NHNN (Thông tư 23) sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 30/2019/TT-NHNN ngày 27-12-2019 về thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang được nhiều chuyên gia nhìn nhận như một động thái “nới lỏng” chính sách tiền tệ tương đối mạnh. Theo Thông tư 23, tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc ngân hàng thương mại được kiểm soát đặc biệt theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng thì được giảm 50% tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo phương án chuyển giao bắt buộc ngân hàng thương mại được kiểm soát đặc biệt đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Như vậy, thay vì phải dự trữ bắt buộc tương đương 3% lượng tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng; dự trữ bắt buộc tương đương 1% với tiền gửi kỳ hạn 12 tháng trở lên (với tiền gửi bằng tiền đồng); nhóm ngân hàng này chỉ cần dự trữ với tỷ lệ lần lượt là 1,5% và 0,5%. Với 100 đồng tiền gửi kỳ hạn dưới một năm hoặc không kỳ hạn, bốn ngân hàng thương mại nhận chuyển giao bắt buộc ngân hàng được kiểm soát đặc biệt chỉ cần giữ lại 1,5 đồng thay vì 3 đồng, vì thế, có thể cho vay tới 98,5 đồng, thay vì 97 đồng như trước đây. Tương tự, với 100 đồng tiền gửi kỳ hạn trên một năm, bốn ngân hàng thương mại này có thể cho vay tới 99,5 đồng, thay vì 99 đồng theo quy định cũ.
Đây là nguồn lực thanh khoản không nhỏ, giúp các ngân hàng mở rộng tín dụng mà không cần gia tăng huy động, vừa có thể cho vay kích thích nền kinh tế, vừa hỗ trợ việc tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém.
Trao đổi với Kinh tế Sài Gòn, PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân, Đại học Kinh tế TPHCM, ước tính khi Thông tư 23 chính thức có hiệu lực (ngày 1-10-2025), bốn ngân hàng có thể được “cởi trói” dòng vốn ước tính từ 17.200-51.700 tỉ đồng, tùy theo cơ cấu kỳ hạn tiền gửi thực tế.
Cụ thể, với Vietcombank, theo báo cáo tài chính quí 2-2025, quy mô tiền gửi khách hàng đạt hơn 1,58 triệu tỉ đồng tính đến ngày 30-6-2025. Do đó, với Thông tư 23, ngân hàng này có thể giảm khoảng 7.900-23.800 tỉ đồng dự trữ bắt buộc.
Với MBBank, cùng kỳ, lượng tiền gửi là 783.300 tỉ đồng, việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc giúp giải phóng khoảng 3.900-11.700 tỉ đồng.
Với HDBank, các con số tương ứng là 478.300 tỉ đồng và 2.400-7.200 tỉ đồng.
Với VPBank, dựa trên mức huy động 600.700 tỉ đồng, ngân hàng này có thêm 3.000-9.000 tỉ đồng cho vay.
Theo ông Huân, đây là nguồn lực thanh khoản không nhỏ, giúp các ngân hàng mở rộng tín dụng mà không cần gia tăng huy động, vừa có thể cho vay kích thích nền kinh tế, vừa hỗ trợ việc tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém.
Hóa giải khúc mắc
Nhìn từ góc độ tái cấu trúc ngân hàng yếu kém, ThS. Nguyễn Hoàng Linh, Giám đốc Phân tích và Nghiên cứu Công ty Quản lý quỹ Vietcombank (VCBF), nhận định việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành Thông tư 23 cho phép giảm 50% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại nhận chuyển giao bắt buộc là một quyết định có ý nghĩa quan trọng. Theo ông Linh, cơ chế này không chỉ gia tăng nguồn lực thanh khoản cho nhóm ngân hàng nhận chuyển giao mà còn tạo điều kiện để tiến trình tái cấu trúc các ngân hàng yếu kém được triển khai nhanh hơn và hiệu quả hơn.
Vị chuyên gia này phân tích, về khung pháp lý, Luật các tổ chức tín dụng 2024 (có hiệu lực từ ngày 1-7-2025) đã hoàn thiện cơ chế hỗ trợ, tạo nền tảng pháp lý rõ ràng hơn cho quá trình chuyển giao bắt buộc. Theo đó, ngân hàng nhận chuyển giao (ngân hàng mẹ) có thể hỗ trợ ngân hàng yếu kém (ngân hàng con) trên hai phương diện trọng yếu:
Thứ nhất là thanh khoản và vốn kinh doanh: ngân hàng mẹ gửi tiền hoặc cho ngân hàng con vay với lãi suất ưu đãi để ngân hàng con có thể đáp ứng các nghĩa vụ chi trả và có nguồn vốn để cấp tín dụng. Luật các tổ chức tín dụng 2024 quy định rằng các khoản cho vay này được phân loại vào nợ nhóm 1 và áp dụng hệ số rủi ro 0% khi tính toán hệ số an toàn vốn (CAR), từ đó giúp bảo đảm chất lượng tài sản và khả năng cấp tín dụng của ngân hàng mẹ.
Để tái cơ cấu thành công, điều quan trọng hơn cả là ngân hàng mẹ cần giúp nâng cao năng lực nội tại của ngân hàng con: từ khả năng điều hành, phát triển hoạt động kinh doanh, cho đến năng lực quản trị rủi ro.
Thứ hai là hỗ trợ hoạt động kinh doanh: ngân hàng mẹ không chỉ cử nhân sự tham gia điều hành mà còn có thể chuyển nhượng cho ngân hàng con các khoản nợ chất lượng tốt. Cách làm này giúp ngân hàng con nhanh chóng có được nguồn thu nhập ổn định trong khi năng lực kinh doanh còn hạn chế, đồng thời giúp ngân hàng con tiết kiệm đáng kể chi phí liên quan đến việc tìm kiếm khách hàng. Quan trọng hơn, dòng lợi nhuận tạo ra từ các khoản nợ này sẽ giúp ngân hàng con có thêm nguồn lực xử lý nợ xấu và rút ngắn quá trình xóa lỗ lũy kế.
“Ví dụ, ngân hàng mẹ bán cho ngân hàng con một món nợ trị giá 1.000 tỉ đồng với lãi suất 8%. Ngân hàng con mua khoản nợ này từ nguồn 500 tỉ đồng vay đặc biệt từ NHNN với lãi suất 0% và 500 tỉ đồng vay từ ngân hàng mẹ với lãi suất ưu đãi 4%. Như vậy, món nợ này đem lại biên lãi ròng (NIM) khoảng 6% cho ngân hàng con, mức cao hơn đáng kể so với NIM trung bình của hệ thống, chưa kể ngân hàng con tiết kiệm được các chi phí liên quan đến việc phát triển khách hàng và cấp tín dụng. Lợi nhuận này sẽ được ngân hàng con sử dụng để xử lý nợ xấu và từng bước xóa lỗ lũy kế”, vị chuyên gia giải thích.
Tuy nhiên, theo ông Linh, mặc dù Luật các tổ chức tín dụng 2024 đã đưa ra nhiều cơ chế hỗ trợ ngân hàng mẹ, như cho phép phân loại các khoản cho ngân hàng con vay vào nợ nhóm 1 và áp dụng hệ số rủi ro 0% khi tính CAR, nhưng thách thức lớn nhất vẫn nằm ở nguồn vốn. Ngân hàng mẹ buộc phải chủ động huy động vốn từ thị trường để có nguồn lực cho vay ưu đãi. Trong bối cảnh lãi suất huy động cần duy trì ở mức thấp để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, khả năng huy động vốn của các ngân hàng thương mại đang gặp nhiều khó khăn. Sau năm tháng đầu năm 2025, tiền gửi toàn hệ thống chỉ tăng 2,4% trong khi tín dụng tăng tới 6,7%. Bên cạnh đó, việc chuyển đổi tiền mặt thành các khoản cho vay đối với ngân hàng con cũng đồng nghĩa với việc suy giảm tài sản có tính thanh khoản cao của ngân hàng mẹ, qua đó tác động trực tiếp đến yêu cầu duy trì tỷ lệ dự trữ thanh khoản tối thiểu 10% được quy định trong Thông tư 22/2019.
“Chính vì vậy, việc giảm 50% tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo Thông tư 23 đã giúp giải phóng một lượng vốn đáng kể để ngân hàng mẹ có thể mở rộng hỗ trợ cho ngân hàng con. Số liệu cho thấy, tại cuối quí 2-2025, tổng số dư tiền gửi tại NHNN của bốn ngân hàng nhận chuyển giao (VCB, MBB, VPB, HDB) xấp xỉ 80.000 tỉ đồng. Do đó, khi Thông tư 23 có hiệu lực từ ngày 1-10-2025, khoảng 40.000 tỉ đồng dự trữ bắt buộc sẽ được giải phóng, giúp các ngân hàng này có thể cấp thêm các khoản vay ưu đãi cho ngân hàng con với quy mô lên tới 400.000 tỉ đồng mà vẫn đảm bảo duy trì chỉ tiêu về dự trữ thanh khoản tối thiểu 10%”, ông Linh nhận định.
Để không gia tăng nợ xấu
Trước những lo ngại về những rủi ro có thể xuất hiện nếu “nới lỏng” tín dụng, ông Nguyễn Hoàng Linh phân tích, theo điều 182 Luật các tổ chức tín dụng 2024, ngân hàng mẹ chỉ được phép bán cho ngân hàng con các khoản nợ đủ tiêu chuẩn (nợ nhóm 1). Trong trường hợp các khoản nợ này sau đó bị chuyển thành nợ xấu, ngân hàng mẹ có nghĩa vụ mua lại. Quy định này buộc ngân hàng mẹ phải chịu trách nhiệm trực tiếp về chất lượng khoản nợ, qua đó tăng cường ý thức quản trị rủi ro trong suốt quá trình tái cơ cấu ngân hàng con.
Tuy vậy, theo vị chuyên gia của VCBF, trên thực tế, vẫn tồn tại rủi ro nếu ngân hàng mẹ muốn đẩy mạnh lợi nhuận của ngân hàng con để rút ngắn thời gian xóa lỗ lũy kế. Chẳng hạn, ngân hàng mẹ có thể khuyến khích ngân hàng con sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi để cho vay ở các lĩnh vực có lãi suất cao nhưng rủi ro lớn. Về bản chất, đây là hình thức gián tiếp mở rộng tín dụng vào khu vực rủi ro cao, trong khi các khoản cho vay giữa ngân hàng mẹ và ngân hàng con lại được áp dụng hệ số rủi ro 0% khi tính hệ số CAR cho ngân hàng mẹ. Điều này có thể tạo ra sự chênh lệch giữa rủi ro thực tế và rủi ro được ghi nhận trong báo cáo an toàn vốn. Trong trường hợp này, yếu tố then chốt để giảm thiểu rủi ro từ chính sách này nằm ở năng lực giám sát và điều tiết của NHNN.
“Cần bảo đảm rằng việc áp dụng cơ chế hỗ trợ không bị lạm dụng chỉ nhằm tạo ra lợi nhuận ngắn hạn cho ngân hàng yếu kém. Việc tạo nguồn lực để xử lý nợ xấu, xóa lỗ lũy kế và đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu là cần thiết, nhưng quan trọng hơn là phải duy trì sự an toàn và phát triển bền vững của toàn hệ thống trong suốt quá trình này. Điều đó đồng nghĩa với việc NHNN cần giám sát không chỉ quy mô lợi nhuận, mà còn chất lượng và tính bền vững của lợi nhuận tại ngân hàng con”, ông Linh lưu ý.
Ngoài ra, theo ông Linh, để tái cơ cấu thành công, điều quan trọng hơn cả là ngân hàng mẹ cần giúp nâng cao năng lực nội tại của ngân hàng con: từ khả năng điều hành, phát triển hoạt động kinh doanh, cho đến năng lực quản trị rủi ro. Chỉ khi những yếu tố cốt lõi này được củng cố, ngân hàng con mới có thể phát triển bền vững sau khi giai đoạn hỗ trợ kết thúc, tránh nguy cơ rơi trở lại tình trạng yếu kém trong tương lai.