Khó khăn và thách thức trong công tác điều hành chính sách tiền tệ hiện nay
Phong Sơn (NHNN)|23/05/2023 09:17
Chính sách tiền tệ đã và đang phải gồng mình để hoàn thành sứ mệnh đa mục tiêu trước hàng loạt các thách thức bủa vây cả từ bên trong lẫn bên ngoài.
Có thể nói, công tác điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đối diện với rất nhiều khó khăn và thách thức; đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải rất linh hoạt, chủ động thích ứng, kịp thời tham mưu để đề xuất các giải pháp điều hành nhằm hỗ trợ phục hồi nền kinh tế sau khi chịu tác động nghiêm trọng và nặng nề từ đại dịch Covid-19 nhưng vẫn phải đảm bảo mục tiêu ưu tiên hàng đầu đã được luật hóa trong Luật NHNN là kiểm soát lạm phát. Theo đó, CSTT đã và đang phải gồng mình để hoàn thành sứ mệnh đa mục tiêu trước hàng loạt các thách thức bủa vây cả từ bên trong lẫn bên ngoài.
Giảm lãi suất là một trong những chính sách quan trọng mà ngành Ngân hàng đã và đang triển khai quyết liệt với tinh thần đồng hành, chia sẻ và trách nhiệm đối với người dân, doanh nghiệp, góp phần hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và tăng trưởng.
1. Thách thức từ bên ngoài
Thứ nhất,năm 2020, kinh tế thế giới từ suy thoái sâu do tác động nghiêm trọng của đại dịch Covid-19 đã nhanh chóng chuyển sang trạng thái lạm phát cao kỉ lục trong năm 2022, kéo theo đó là sự chuyển hướng chính sách từ nới lỏng để hỗ trợ kinh tế sang thắt chặt để kiểm soát lạm phát. Sang năm 2023, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp; khó khăn, rủi ro gia tăng; các nền kinh tế phát triển là đối tác chiến lược về thương mại, đầu tư hàng đầu của Việt Nam đều tăng trưởng thấp đi kèm rủi ro suy thoái trong khi lạm phát vẫn neo ở mức cao; hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng toàn cầu chậm lại. Cuộc xung đột giữa Nga - Ukraine là vấn đề bất ngờ phát sinh, làm chậm quá trình phục hồi của nền kinh tế thế giới, gây đứt gãy chuỗi cung ứng, gia tăng thách thức về an ninh năng lượng, an ninh lương thực toàn cầu. Những yếu tố này đã tác động không nhỏ đến hoạt động kinh tế - xã hội nước ta. Với quốc gia có độ mở kinh tế lớn như Việt Nam (tỉ lệ xuất khẩu/GDP gần 100%), bối cảnh môi trường quốc tế biến động là thách thức vô cùng lớn. Kinh tế thế giới sụt giảm1 khiến cầu nước ngoài giảm theo, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động xuất, nhập khẩu, đầu tư; thu hút vốn đầu tư nước ngoài; và cuối cùng là tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và các cân đối lớn của nền kinh tế. Điều này đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của ngành Ngân hàng nói chung và công tác điều hành CSTT nói riêng.
Thứ hai, lạm phát toàn cầu mặc dù hạ nhiệt nhưng vẫn duy trì ở mức cao tại nhiều quốc gia khiến ngân hàng trung ương (NHTW) các nước tiếp tục neo giữ lãi suất điều hành cao và thậm chí có thể tăng; cộng hưởng với sự biến động khó lường trong giá hàng hóa thế giới đã gây khó khăn cho điều hành CSTT của NHNN, đặc biệt là trong việc kiểm soát lạm phát. Bối cảnh lãi suất thế giới vẫn tăng và neo ở mức cao, CSTT thắt chặt, diễn biến giá hàng hóa thế giới khó lường nhưng NHNN vẫn tiếp tục thực hiện chủ trương của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về giảm lãi suất cho vay nhằm tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân; hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế. Đây chính là lựa chọn chính sách khó khăn khi vừa phải kiềm chế lạm phát, ổn định hệ thống ngân hàng vừa phải hỗ trợ kinh tế phục hồi sau đại dịch.
Nhìn lại năm 2022, với áp lực bất ổn vĩ mô cũng như sức ép lạm phát thế giới rất cao, việc NHNN kiên định với mục tiêu kiểm soát là lựa chọn đúng đắn; các tổ chức quốc tế đánh giá cao thành công này của NHNN. Trong khi lạm phát tại nhiều quốc gia liên tục leo lên các mức kỉ lục thì lạm phát trong nước về cơ bản ổn định và được kiểm soát. Đóng góp vào thành công này là nỗ lực của Chính phủ, nhiều bộ, ngành nhưng trong đó có dấu ấn rõ nét đến từ công tác điều hành CSTT của NHNN.
Thứ ba,việc CSTT của các NHTW trên thế giới chuyển đột ngột từ môi trường lãi suất thấp sang lãi suất cao đã làm bộc lộ các điểm yếu của hệ thống tài chính - ngân hàng. Thị trường tài chính biến động mạnh, chỉ riêng trong tháng 3/2023, tại Mỹ đã có 03 ngân hàng tuyên bố phá sản hoặc tạm ngừng hoạt động; tại châu Âu, ngân hàng UBS mua lại Credit Suisse khiến người dân rút tiền ồ ạt, gây mất khả năng thanh khoản; thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp tại nhiều quốc gia gặp khó khăn đã tác động lan tỏa đến tâm lí các nhà đầu tư, doanh nghiệp, người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng cũng như hoạt động sản xuất, kinh doanh của các nền kinh tế trong đó có Việt Nam.
2. Thách thức từ các yếu tố bên trong
Chỉ trong chưa đầy 03 năm, kinh tế trong nước đã phải trải qua 03 giai đoạn chính. Giai đoạn dịch bệnh Covid-19 bùng phát, bắt đầu từ cuối năm 2020, đầu năm 2021 đến tháng 10/2021 - là giai đoạn triển khai nhiều biện pháp “chưa từng có tiền lệ”, thực hiện giãn cách xã hội, ngăn chặn đà lây lan của dịch bệnh. Tiếp theo là giai đoạn mở cửa lại nền kinh tế, trong đó từng bước mở cửa lại các ngành, lĩnh vực. Và hiện nay là giai đoạn phục hồi và thích ứng với bối cảnh kinh tế vĩ mô toàn cầu mới, đánh dấu từ việc nước ta chính thức mở cửa hoàn toàn du lịch từ ngày 15/3/2022, triển khai thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời ứng phó, thích ứng với những khó khăn, thách thức mới từ bối cảnh kinh tế, chính trị toàn cầu.
Với việc trải qua nhiều giai đoạn kinh tế như vậy, các chính sách đòi hỏi cũng phải thích ứng, linh hoạt và phù hợp với bối cảnh tình hình mới, hạn chế tác động tiêu cực lên hoạt động kinh tế... CSTT của NHNN cũng không ngoại lệ. Từ việc triển khai hàng loạt các giải pháp chưa từng có để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn do bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 trong giai đoạn dịch bùng phát (trong đó, đáng chú ý là việc ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 quy định về việc việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid - 19 và các Thông tư sửa đổi, bổ sung) đến việc chuyển hướng sang thực hiện tăng lãi suất theo xu hướng và bối cảnh quốc tế chung để kiểm soát lạm phát. Trong bối cảnh hiện nay, khi dịch bệnh cơ bản đã qua đi, nhưng hậu quả để lại đối với nền kinh tế vẫn còn dai dẳng, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo rất sát sao các bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế để đạt mục tiêu tăng trưởng đề ra. Do đó, việc chuyển hướng chính sách là rất khó để cân bằng hài hòa các mục tiêu, nhiều mục tiêu thì mâu thuẫn nhau. Như đã đề cập ở trên, NHNN vừa phải đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định hệ thống ngân hàng vừa phải hỗ trợ kinh tế phục hồi sau đại dịch; vừa phải giảm áp lực mất giá mạnh của đồng Việt Nam (do USD thế giới tăng giá kỉ lục trong năm 2022), trong khi vẫn phải giữ ổn định mặt bằng lãi suất, thậm chí phải tiếp tục thực hiện mục tiêu giảm lãi suất để hỗ trợ phục hồi nền kinh tế; đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, kiểm soát lạm phát nhưng vẫn phải đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế thông qua kênh tín dụng và các biện pháp tháo gỡ khó khăn khác...
Trong bối cảnh đó, bước sang năm 2023, công tác điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng phải đối mặt với nhiều thách thức để làm sao xử lí hài hòa nhiều mục tiêu mâu thuẫn nhau, nhất là trong điều kiện dư địa CSTT là tương đối hạn hẹp.
Thứ nhất, công tác kiểm soát lạm phát gặp thách thức mặc dù lạm phát trong nước có xu hướng chậm lại nhưng giá hàng hóa thế giới biến động phức tạp, lạm phát quốc tế vẫn ở mức cao. Một số chính sách hỗ trợ giá trong nước đã chấm dứt từ cuối năm 2022, giá các mặt hàng Nhà nước quản lí tiếp tục tăng theo lộ trình (tháng 5/2023 tăng giá điện) và việc điều chỉnh tăng lương cơ sở từ ngày 01/7/2023 cũng gây ra sức ép đến lạm phát trong nước.
Thứ hai,với áp lực lạm phát như vậy, trong khi tình hình kinh tế hiện nay còn nhiều khó khăn, để hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn cho các khách hàng phục hồi sản xuất, kinh doanh theo chỉ đạo của Quốc hội, mục tiêu giảm lãi suất gặp nhiều cản trở. Bởi lẽ, các NHTW lớn trên thế giới đang trong tiến trình thắt chặt CSTT, điều chỉnh tăng lãi suất và mức lãi suất này hiện vẫn neo ở mức cao. Để kiểm soát lạm phát trong năm 2022 và phù hợp với bối cảnh quốc tế chung, việc điều chỉnh tăng lãi suất chính sách năm 2022 đã làm gia tăng mặt bằng lãi suất. Do đó, để cân bằng và hài hòa được các mục tiêu là bài toàn vô cùng khó, đòi hỏi nghệ thuật điều hành của các nhà hoạch định chính sách.
Thứ ba, với tình hình huy động qua các kênh cung ứng vốn khác cho nền kinh tế đang gặp khó khăn (thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, thu hút đầu tư nước ngoài...) như hiện nay, sức ép về vốn lại dồn lên vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng để đáp ứng nhu cầu hồi phục kinh tế trong khi tỉ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam ở mức cao so với các nước đang phát triển có điều kiện tương đồng. Do đó, việc nền kinh tế tập trung quá lớn vào vốn từ hệ thống ngân hàng sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro, đe dọa sự an toàn hệ thống, đã và đang tạo ra sức ép và rủi ro chênh lệch kì hạn, rủi ro thanh khoản cho các TCTD trong bối cảnh tín dụng trung dài hạn chiếm tỉ trọng cao trong khi huy động vốn của các TCTD chủ yếu là ngắn hạn.
3. Điều hành CSTT linh hoạt, chắc chắn, hiệu quả
Với bối cảnh có nhiều áp lực trong điều hành CSTT như vậy, nhưng trong hơn 04 tháng đầu năm 2023, CSTT đã được điều hành linh hoạt, chắc chắn, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành để chung tay, góp sức, chia sẻ và đồng hành cùng nền kinh tế khắc phục khó khăn, đạt được các mục tiêu vĩ mô đặt ra và được dư luận xã hội đánh giá cao. Một số kết quả chính có thể kể đến như: Việc điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở đã đảm bảo thanh khoản cho hệ thống TCTD trong trạng thái dư thừa; theo đó, lãi suất liên ngân hàng giảm nhanh tạo điều kiện để TCTD có thêm dư địa giảm lãi suất huy động và cho vay đối với nền kinh tế. Thanh khoản dư thừa, dư địa tăng trưởng tín dụng còn lớn, TCTD thuận lợi trong việc đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Tỉ giá về cơ bản ổn định so với các đồng tiền khác trong khu vực, tạo niềm tin cho người dân và doanh nghiệp vào giá trị đồng Việt Nam. Việc NHNN mua được ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối cũng góp phần đưa một lượng lớn tiền đồng ra nền kinh tế, tạo thanh khoản cho TCTD. Mặt bằng lãi suất sau khi tăng trong năm 2022 do áp lực trong và ngoài nước thì đến nay đã giảm so với cuối năm 2022 sau khi NHNN điều chỉnh giảm 02 lần liên tiếp lãi suất điều hành, vận động và khuyến khích các TCTD tiết giảm chi phí để giảm lãi suất cho vay. Với việc giảm lãi suất cho vay này cho thấy xu hướng lãi suất sẽ giảm dần trong thời gian tới. Bên cạnh đó, Thống đốc NHNN đã khẩn trương ban hành 02 Thông tư để hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế: (i) Thông tư số 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2024 quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hành gặp khó khăn; (ii) Thông tư số 03/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023 quy định ngưng hiệu lực thi hành khoản 11 Điều 4 Thông tư số 16/2021/TT-NHNN ngày 10/11/2021 của Thống đốc NHNN quy định việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán trái phiếu doanh nghiệp.
4. Một số yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra
Như phân tích trên đây, bối cảnh kinh tế thế giới cũng như tình hình kinh tế trong nước tiếp tục khó khăn, do đó đòi hỏi sự phối hợp và triển khai quyết liệt của các bộ ngành, địa phương để đạt được các mục tiêu đề ra. Theo đó, một số yêu cầu đặt ra đối với kinh tế Việt Nam trong thời gian tới:
(i) Tiếp tục kiên trì mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định hệ thống tài chính - ngân hàng.
(ii) Tình hình kinh tế thế giới dự báo tiếp tục diễn biến nhanh, khó lường, do đó cần theo dõi sát, nắm bắt kịp thời các vấn đề mới, các điều chỉnh chính sách của các nước để có giải pháp điều hành chủ động, kịp thời, phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác, bảo đảm cân bằng giữa mục tiêu tăng trưởng và kiềm chế lạm phát.
(iii) Tiếp tục triển khai quyết liệt, kịp thời nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh theo chủ trương và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; đẩy mạnh giải ngân đầu tư công; khai thác thúc đẩy tăng cầu nội địa để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
(iv) Đẩy mạnh các giải pháp để phát triển thị trường vốn an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, huy động nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn chủ yếu cho nền kinh tế, tiếp tục điều chỉnh cơ cấu hợp lí giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn, thị trường cổ phiếu và trái phiếu.
1 Hầu hết các tổ chức quốc tế (Ngân hàng Thế giới - WB; Quỹ Tiền tệ quốc tế - IMF) đều hạ dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023.
NHNN đã điều hành đồng bộ các công cụ CSTT để ổn định thị trường tiền tệ, ngoại tệ, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trước diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và căng thẳng địa chính trị
Bình luận của bạn đã được gửi và sẽ hiển thị sau khi được duyệt bởi ban biên tập.
Ban biên tập giữ quyền biên tập nội dung bình luận để phù hợp với qui định nội dung của Báo.
Việt Nam đang hướng tới những dấu mốc tham vọng, trở thành nước có thu nhập trung bình cao năm 2030, nước có thu nhập cao năm 2045 và quốc gia hùng cường, hưng thịnh, hạnh phúc năm 2050 (theo Nghị quyết vừa được Quốc hội thông qua ngày 10-12-2025). Công nghiệp hóa, cả bề rộng và chiều sâu được cân nhắc như một chính sách quan trọng nhằm hiện thực hóa mục tiêu này.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với một thực tế là nghĩa vụ tuân thủ đối với các quy định tăng lên gần như theo từng quí. Chống rửa tiền, bảo vệ dữ liệu cá nhân, thuế, an toàn thông tin, kiểm soát gian lận giao dịch và hàng chục loại báo cáo định kỳ khiến hệ thống xử lý thủ công trở nên quá tải.
Việc tái cơ cấu mạnh mẽ nền kinh tế và xác lập mô hình tăng trưởng mới không chỉ giúp khai thác tốt hơn các nguồn lực hiện có mà còn tạo ra không gian phát triển mới cho giai đoạn 2026 - 2030. Nhờ đó, mục tiêu tăng trưởng cao trong giai đoạn tới sẽ có nhiều khả năng trở thành hiện thực.
Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, triển vọng 2026 (VEPF), Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà cho biết, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu tăng tốc mạnh mẽ trong giai đoạn phát triển sắp tới. Bởi vậy, Chính phủ đã xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt tối thiểu 8% trong năm 2025 và hướng tới mức tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026–2030. Đây là nền tảng quan trọng để Việt Nam vươn lên nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và tiến tới mục tiêu trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045.
(KTSG Online) - So với các nước trong khu vực, Việt Nam đã chậm một nhịp trong việc đưa AI vào nhà máy. Nhưng theo các chuyên gia, vấn đề hiện nay không còn là "ứng dụng sớm hay muộn", mà là "có ứng dụng hay không", bởi khoảng cách đang mở ra quá nhanh, và nếu không hành động, nguy cơ bị đẩy ra ngoài chuỗi giá trị là rất rõ ràng.
Việc nhận diện sớm các loại tranh chấp tiềm ẩn về dữ liệu cá nhân của khách hàng giúp doanh nghiệp chủ động đánh giá rủi ro, hoàn thiện quy trình nội bộ, đầu tư vào công nghệ và xây dựng cơ chế minh bạch cho người dùng.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với một thực tế là nghĩa vụ tuân thủ đối với các quy định tăng lên gần như theo từng quí. Chống rửa tiền, bảo vệ dữ liệu cá nhân, thuế, an toàn thông tin, kiểm soát gian lận giao dịch và hàng chục loại báo cáo định kỳ khiến hệ thống xử lý thủ công trở nên quá tải.
Cùng với việc công bố thành lập Trung tâm tài chính quốc tế và ra mắt các nhân sự cấp cao tham gia điều hành, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu các bên liên quan ưu tiên xử lý khó khăn vướng mắc của nhà đầu tư.
Việc tái cơ cấu mạnh mẽ nền kinh tế và xác lập mô hình tăng trưởng mới không chỉ giúp khai thác tốt hơn các nguồn lực hiện có mà còn tạo ra không gian phát triển mới cho giai đoạn 2026 - 2030. Nhờ đó, mục tiêu tăng trưởng cao trong giai đoạn tới sẽ có nhiều khả năng trở thành hiện thực.
Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, triển vọng 2026 (VEPF), Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà cho biết, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu tăng tốc mạnh mẽ trong giai đoạn phát triển sắp tới. Bởi vậy, Chính phủ đã xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt tối thiểu 8% trong năm 2025 và hướng tới mức tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026–2030. Đây là nền tảng quan trọng để Việt Nam vươn lên nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và tiến tới mục tiêu trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045.
(KTSG Online) - So với các nước trong khu vực, Việt Nam đã chậm một nhịp trong việc đưa AI vào nhà máy. Nhưng theo các chuyên gia, vấn đề hiện nay không còn là "ứng dụng sớm hay muộn", mà là "có ứng dụng hay không", bởi khoảng cách đang mở ra quá nhanh, và nếu không hành động, nguy cơ bị đẩy ra ngoài chuỗi giá trị là rất rõ ràng.
Việt Nam đang hướng tới những dấu mốc tham vọng, trở thành nước có thu nhập trung bình cao năm 2030, nước có thu nhập cao năm 2045 và quốc gia hùng cường, hưng thịnh, hạnh phúc năm 2050 (theo Nghị quyết vừa được Quốc hội thông qua ngày 10-12-2025). Công nghiệp hóa, cả bề rộng và chiều sâu được cân nhắc như một chính sách quan trọng nhằm hiện thực hóa mục tiêu này.
Dự án nghiên cứu sản xuất sản phẩm bán dẫn với vốn đầu tư chỉ từ 6000 tỷ đồng sẽ được áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi đối với các dự án đặc biệt theo Luật đầu tư; miễn toàn bộ tiền thuê đất, thuê mặt nước của dự án; miễn thuế thu nhập cá nhân cho nhân lực chất lượng cao trong 5 năm; miễn giấy phép lao động và visa 5 năm cho nhân lực chất lượng cao là người nước ngoài,…
Việc nhận diện sớm các loại tranh chấp tiềm ẩn về dữ liệu cá nhân của khách hàng giúp doanh nghiệp chủ động đánh giá rủi ro, hoàn thiện quy trình nội bộ, đầu tư vào công nghệ và xây dựng cơ chế minh bạch cho người dùng.
Hạ tầng dữ liệu quốc gia là trụ cột chiến lược của chủ quyền số và phát triển kinh tế - xã hội. Để hiện thực hóa các mục tiêu do Chính phủ đề ra, đặc biệt là việc xây dựng các trung tâm dữ liệu quy mô siêu lớn và hỗ trợ trí tuệ nhân tạo (AI), huy động nguồn lực tư nhân thông qua hợp tác công - tư (PPP) là giải pháp quan trọng.
Trước thời điểm đón chuyến bay kỹ thuật đầu tiên dự kiến vào ngày 15/12, Sân bay quốc tế Long Thành đã hoàn tất các điều kiện khu bay, đường băng số 1 và phương án vận hành, đánh dấu bước chuyển từ thi công sang vận hành thử nghiệm.
Dự kiến, năm 2026 sẽ có 5 sàn giao dịch tài sản mã hóa được hình thành. Tuy nhiên, việc các sàn này thực sự thu hút được vốn đầu tư, cũng như trở thành kênh huy động vốn cho nền kinh tế phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như pháp lý, hạ tầng, quản trị…
Một cuộc cách mạng trong thương mại điện tử đang diễn ra, cho phép người tạo ra sản phẩm khai thác nguồn thu mới, thu thập thông tin thị trường và tăng tương tác của khách hàng. Có thể lựa chọn từ bốn chiến lược khai thác thị trường bán lại tài sản số.
Sandbox fintech và ưu đãi đặc biệt tại IFC đang hút hàng loạt ông lớn toàn cầu như Binance, Bybit, Tether cùng các quỹ và startup blockchain Việt Nam. Hai trung tâm tài chính trẻ tại Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh bất ngờ nổi lên như điểm đến an toàn cho các công ty tài sản kỹ thuật số toàn cầu và trong nước đang tìm kiếm sự tăng trưởng và tuân thủ.
Trong bối cảnh khí hậu toàn cầu bước vào giai đoạn cực đoan hơn và các tiêu chuẩn xanh trở thành “hàng rào” cạnh tranh mới trên thị trường quốc tế, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững và có khả năng chống chịu cao hơn.
Thị trường hàng không tầm thấp toàn cầu được dự báo đạt 700 tỷ USD vào năm 2035, trong đó Việt Nam có tiềm năng chạm mốc 10 tỷ USD. Với sự hội tụ của ổn định chính trị, chính sách đổi mới sáng tạo và lực lượng lao động trẻ, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để hình thành ngành kinh tế này mở ra không gian phát triển mới dựa trên công nghệ bay có và không người lái.
Hội nghị khoa học CCUS 2025 tổ chức tại TPHCM đầu tháng 12 đã phác họa một điều bất ngờ: Việt Nam sở hữu những bể trầm tích có thể lưu trữ hàng chục tỉ tấn CO₂, đủ để mở ra một ngành kinh tế mới – “kinh tế carbon thấp”.
Từ ngày 1-1-2026, chế độ thuế khoán chính thức chấm dứt, hộ kinh doanh lần đầu tiên bước vào giai đoạn kê khai đầy đủ thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân như doanh nghiệp.
Mua bán - sáp nhập (M&A) trong ngành ngân hàng đang trở thành chủ đề nóng trên thị trường tài chính Việt Nam trong những năm gần đây. Thị trường chờ đợi thêm các thương vụ bán vốn mới của ngân hàng trong nước cho nhà đầu tư chiến lược.