Từ kinh nghiệm của các "con rồng châu Á", Việt Nam cần duy trì đầu tư công ở mức cao trong ít nhất một đến hai thập kỷ tới, tức khoảng đến năm 2045, để đáp ứng nhu cầu phát triển hạ tầng cơ sở, thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng bền vững.
Song song đó, cần cải cách thể chế, nâng cao hiệu quả để dần giảm tỷ trọng này xuống mức bền vững trong dài hạn.
Nghiên cứu Dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, tôi đặc biệt quan tâm tới các chính sách kinh tế quan trọng để tạo ra đột phá chiến lược, trong đó có vai trò then chốt của đầu tư công để đạt mục tiêu tổng quát là tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm trong giai đoạn 2026-2030, GDP bình quân đầu người khoảng 8.500 USD vào năm 2030. Đây là mục tiêu khá tham vọng so giai đoạn 2021-2025, khi tăng trưởng chỉ đạt bình quân 6,3%/năm.
Mục tiêu tăng trưởng và vai trò của đầu tư công
Dự thảo Báo cáo Chính trị và Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030 dự kiến tổng mức đầu tư toàn xã hội khoảng 3- 3,2 triệu tỷ đồng, trong đó vốn từ khu vực tư nhân, kinh tế ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) dự kiến chiếm khoảng 60-65%, tương đương hơn 1.800 tỷ đồng, tập trung vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, công nghiệp hỗ trợ, đô thị, lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao.
Mục tiêu tăng trưởng với tốc độ cao đòi hỏi phải có nền tảng hạ tầng đồng bộ, hiện đại để hỗ trợ hoạt động kinh tế, thu hút đầu tư. Đó là các công trình hạ tầng trọng điểm quốc gia, hạ tầng năng lượng, nền tảng số quốc gia. Chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đòi hỏi đầu tư lớn hướng tới phát triển bền vững, tăng trưởng chất lượng thay vì chỉ tăng trưởng số lượng.
Dù kế hoạch đầu tư công và huy động vốn xã hội giai đoạn 2026-2030 dự kiến tăng về quy mô và tập trung hơn, nhiều người có thể vẫn cho rằng ít có sự khác biệt so các giai đoạn trước. Tuy nhiên, qua dự thảo Báo cáo Chính trị và các văn kiện liên quan chúng ta có thể thấy một số đột phá quan trọng, cốt lõi như: thay vì dàn trải vốn đầu tư cho nhiều dự án nhỏ chúng ta sẽ tập trung đầu tư dự án trọng điểm, quy mô lớn, mang tính biểu tượng quốc gia, tác động cơ bản, lâu dài, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra bước nhảy vọt trong phát triển.
Cải cách quản lý, minh bạch và huy động nguồn lực đầu tư
Trong đầu tư công, những đột phá mới đến khi công tác quản lý đầu tư chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm, ứng dụng công nghệ số trong giám sát, minh bạch đầu tư, phân cấp, phân quyền hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả nguồn lực.
Tôi nhận thức được rằng, việc tập trung các nguồn vốn cho đầu tư là cần thiết, nhưng phải có các cơ chế, giải pháp để cải thiện hiệu suất đầu tư công, nhằm tối ưu hóa nguồn lực, nâng cao chất lượng đầu tư. Một số cơ chế tiêu biểu có thể là: đánh giá toàn diện về hiệu quả và tác động; thực hiện đánh giá kỹ lưỡng tác động xã hội, môi trường, kinh tế và chi phí - lợi ích trước khi phê duyệt dự án; áp dụng công cụ phân tích rủi ro để giảm thiểu thất thoát, sai phạm.
Hiện nay, chúng ta đã có Kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm (2026-2030), nhưng hoàn toàn có thể lập kế hoạch đầu tư dài hơn, được điều chỉnh linh hoạt theo diễn biến nền kinh tế và nguồn lực thực tế. Cần có cơ chế giám sát, minh bạch và trách nhiệm giải trình, áp dụng công nghệ số để theo dõi tiến độ, chất lượng dự án trực tiếp, công khai nguồn vốn và kết quả thực hiện; nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư, nhà thầu, quản lý dự án qua hệ thống kiểm toán độc lập. Khuyến khích phương thức hợp tác công-tư (PPP), huy động vốn tư nhân đồng thời nâng cao quản trị dự án, rủi ro đầu tư, tối ưu hóa cơ chế đấu thầu, lựa chọn nhà đầu tư có năng lực thật sự.
Một số dự án quan trọng được người dân rất mong đợi như dự án đường sắt tốc độ cao đi Cần Thơ, dự án hồ chứa nước ngọt và các công trình thủy lợi lớn tại Đồng bằng sông Cửu Long chưa được đưa vào Phụ lục 3, có thể là do các yếu tố chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và phân kỳ đầu tư, thứ tự ưu tiên các dự án có quy mô lớn, tầm quốc gia nhằm tạo bước đột phá về hạ tầng then chốt trước. Tuy nhiên, nên có sự lưu ý đúng mức trong Dự thảo văn kiện vì đây là các dự án rất quan trọng với vùng kinh tế này, có thể giao cho các địa phương trong vùng triển khai trong các kế hoạch đầu tư trung hạn hoặc đưa vào các chương trình phát triển nông nghiệp, ứng phó biến đổi khí hậu.
Việc giao các tập đoàn tư nhân lớn làm các dự án hạ tầng trọng điểm mang lại nhiều lợi ích nhưng cũng tiềm ẩn không ít rủi ro cho nền kinh tế, nên cần được quản lý, kiểm soát chặt chẽ, nhất là các rủi ro về tài chính, đầu tư, quản trị và minh bạch, giải pháp kiểm soát rủi ro để bảo đảm an ninh kinh tế, xã hội bền vững. Bên cạnh đó, việc các tập đoàn tư nhân lớn thực hiện các dự án hạ tầng trọng điểm không đồng nghĩa Nhà nước từ bỏ vai trò quản lý dự án để bảo đảm sự giám sát, minh bạch, hiệu quả đầu tư, kiểm soát các rủi ro liên quan đến tiến độ, chất lượng, tài chính, hành chính trong dự án, nhất là các công trình hạ tầng trọng điểm quốc gia cũng như thực hiện vai trò điều phối, cân bằng lợi ích giữa các bên, bảo đảm dự án phù hợp mục tiêu phát triển chung, chính sách quốc gia.
Mặt khác, theo Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng, việc xác lập và phát triển các vùng kinh tế đô thị trọng điểm là cần thiết để tạo động lực tăng trưởng và phát triển bền vững. Chúng ta đã có vùng Thủ đô quy định theo Luật Thủ đô 2024, là khu vực liên kết phát triển kinh tế-xã hội gồm thành phố Hà Nội và một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lân cận do Chính phủ quyết định, là vùng phát triển trọng điểm quốc gia. Còn vùng Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế lớn nhất Việt Nam, đã xuất hiện rải rác trong các văn bản quy phạm pháp luật nhưng chưa có tính pháp lý tương tự như vùng Thủ đô Hà Nội để phát huy tối đa hiệu quả liên kết vùng, huy động nguồn lực, đồng bộ hạ tầng và chính sách đặc thù phát triển.
Việc xác lập vùng Thành phố Hồ Chí Minh giúp quản lý quy hoạch tổng thể, phát triển kinh tế đa ngành, tăng sức cạnh tranh quốc tế và thúc đẩy các dự án đột phá về hạ tầng, công nghệ, tài chính... Bởi xét cho cùng, cạnh tranh giữa các quốc gia chính là cạnh tranh giữa các đô thị lớn xét theo quan điểm phân tích chiến lược cạnh tranh quốc gia hiện đại rằng, cạnh tranh quốc gia toàn cầu hiện nay diễn ra chủ yếu giữa các trung tâm đô thị lớn.
Điều này phù hợp nội dung Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV về khuyến khích phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, coi đây là trụ cột quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng toàn diện, bền vững ■
Đột phá không chỉ nằm ở con số vốn, số dự án đầu tư, mà nằm ở sự thay đổi mô hình tăng trưởng, cách thức huy động, tổ chức quản lý nguồn lực nhằm tạo nền tảng phát triển bền vững, hiệu quả và có khả năng thích ứng xu thế thế giới cũng như yêu cầu nội tại của đất nước.
Tiến sĩ Trần Văn
Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-Ngân sách, nay là Ủy ban Kinh tế-Tài chính của Quốc hội