Khảo sát mới nhất của S&P Global về ngành sản xuất Việt Nam cho thấy đã có những dấu hiệu về sự giảm tốc trong bối cảnh số lượng đơn đặt hàng mới tăng chậm hơn.
Kết quả khảo sát khoảng 400 doanh nghiệp sản xuất ở Việt Nam của S&P Global được HS Markit công bố hôm nay (1-11) cho thấy thực tế đáng quan ngại về ngành sản xuất.
Đó là số lượng đơn đặt hàng mới đã tăng yếu nhất trong hơnmột năm, từ đó sản lượng, việc làm và hoạt động mua hàng tăngchậm hơn.
Chỉ số Nhà Quản trị mua hàng – Purchasing Managers’ Index (PMI) phản ánh ngành sản xuất của nền kinh tế Việt Nam, do S&P Global thực hiện, đã giảm từ 52,5 điểm củatháng 9 còn 50,6 điểm trong tháng 10.
Mặc dù chỉ số vẫn nằm trên ngưỡng trung bình (50) cho thấy các điều kiện hoạt độngtrong tháng về tổng thể vẫn cải thiện, nhưng kết quả lần này theo S&P Global là mức thấp nhất trong thời kỳ tăng trưởng kéo dài 13 tháng gần đây.
Nhân tố chính góp phần làm tăng trưởng tổng thể chậm lại trong tháng 10 là mức tăng yếu hơn của số lượng đơn đặt hàng mới. Tổng số lượng đơn đặt hàng mới chỉ tăng nhẹ, và mức tăng là ít nhất kể từ khi bắt đầu thời kỳ tăng hiện nay vào tháng 10-2021.
Ở những nơi số lượng đơn đặt hàng mới tăng, nguyên nhân được cho là do cạnh tranh giá cả và nỗ lực tìm kiếm khách hàng mới của nhà sản xuất.
Tuy nhiên, cũng có những dấu hiệu cho thấy nhu cầu giảm, kể cả nhu cầu hàng xuất khẩu cũng tăng với tốc độ chậm hơn.
Các nhà sản xuất được S&P Global khảo sát cho biết họ tiếp tục gia tăng sản xuất vào đầu quí cuối của năm nay để đáp ứng số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng. Tuy nhiên,
phù hợp với xu hướng số lượng đơn đặt hàng mới và với những dấu hiệu nhu cầu giảm, tốc độ tăng đã chậm lại và là mức thấp của ba tháng.
Sản lượng tăng được ghi nhận ở tất cả các lĩnh vực hàng hóa tiêu dùng, hàng hóa trung gian và hàng hóa đầu tư cơ bản.
Sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới tăng chậm hơn được phản ánh vào tình trạng tăng yếu hơn của hoạt động mua hàng và việc làm trong tháng 10.
Cụ thể hoạt động mua hàng hóa đầu vào tăng với mức ít đáng kể nhất trong bảy tháng, trong khi tốc độ tạo việc làm là thấp nhất kể từ tháng 7. Tuy nhiên, số lượng nhân viên vẫn tăng mạnh trong tháng, từ đó góp phần làm giảm lượng công việc tồn đọng khi số lượng đơn đặt hàng mới tăng chậm hơn đồng nghĩa với việc năng lực sản xuất không phải chịu áp lực.
Tồn kho cả hàng mua và hàng thành phẩm đều giảm trong tháng10, từ đó đã đảo ngược xu hướng tăng được ghi nhận trong kỳ khảosát trước.
Mức giảm của hàng tồn kho trước sản xuất trên thực tế làđáng kể nhất trong 16 tháng khi số lượng đơn đặt hàng mới và hoạtđộng mua hàng tăng chậm hơn, trong khi tồn kho hàng thành phẩmthường giảm do sản xuất tăng chậm hơn.
Tốc độ tăng chi phí đầu vào đã nhanh hơn nhưng vẫn tương đối thấp và chậm hơn nhiều so với thời gian trước đó trong năm. Những người trả lời khảo sát ghi nhận giá cả đầu vào tăng thường cho rằngnguyên nhân là do chi phí dầu, khí đốt, nguyên vật liệu thô và vận tải tăng. Mức tăng giá đầu ra vẫn còn nhẹ và trên thực tế đã giảm nhẹ so với tháng 9.
Đây là lần thứ ba liên tiếp thời gian giao hàng của nhà cung cấp được rút ngắn thêm một chút trong tháng 10 cho thấy chuỗi cung ứng tiếp tục ổn định sau một thời gian liên tục bị gián đoạn.
Hoạt động mua hàng hóa đầu vào tăng chậm hơn đã làm giảm áp lực lêncác nhà cung cấp, mặc dù vẫn có những trường hợp chậm giao hàng do khan hiếm nguyên vật liệu và những khó khăn trong khâu vận tải.
Mặc dù số lượng đơn đặt hàng mới được kỳ vọng cải thiện và đại dịch Covid-19 không còn gây gián đoạn sản xuất giúp các nhà sảnxuất vẫn lạc quan rằng sản lượng sẽ tăng trong năm tới, niềm tin kinh doanh đã giảm thành mức thấp của 13 tháng với những lo ngại nhu cầu có dấu hiệu giảm.
Theo ông Andrew Harker, Giám đốc Kinh tế tại S&P Global MarketIntelligence, dữ liệu chỉ số PMI tháng 10 cho thấy những dấu hiệu đầu tiên rằng tình trạng yếu kém của nền kinh tế toàn cầu đang bắt đầu ảnh hưởng đến tăng trưởng tại các nhà sản xuất của Việt Nam khi cả số lượng đơn đặt hàng mới và xuất khẩu đều tăng với tốc độ yếu nhất trong 13 tháng. Những lo ngại về tình trạng nhu cầu cũng ảnh hưởng đến niềm tin kinh doanh.
Tuy nhiên, theo ông, tình trạng sản lượng và việc làm tiếp tục tăng cùng với áp lực với giá cả và nguồn cung đã giảm có thể giúp ngành sản xuất tiếp tục xu hướng tăng trong thời gian cuối năm.
Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI) ngành sản xuất tại Việt Nam (The Nikkei Vietnam Manufacturing – PMI) dựa theo dữ liệu khảo sát hàng tháng được gửi đến các nhà quản trị mua hàng của hơn 400 doanh nghiệp ngành công nghiệp (industrial companies).
Bảng dữ liệu được phân loại theo GDP và quy mô lực lượng lao động doanh nghiệp. Lĩnh vực sản xuất được chia thành 8 mảng: kim loại, hóa chất và nhựa, điện và quang học, thực phẩm và đồ uống, kỹ thuật cơ khí, dệt và may mặc, giấy và gỗ, vận chuyển.