Khoa học – công nghệ 2025: Từ nghị quyết đến những con số biết nói
Nghiên cứu - Trao đổi - Ngày đăng : 22:36, 29/12/2025
Từ Nghị quyết 57 đến “đường băng pháp lý” cho khoa học – công nghệ
Năm 2025 đánh dấu thời điểm Nghị quyết 57-NQ/TW (ngày 22-12-2024) đi gần hết năm đầu tiên triển khai. Nghị quyết này đã mở đường cho đầu tư công nghệ khi lần đầu tiên đặt ra các mục tiêu nguồn lực cụ thể, qua đó tạo sức ép rõ ràng đối với quá trình tổ chức thực hiện.
Theo baochinhphu.vn, báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện Nghị quyết 57 do Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng Võ Thành Hưng trình bày ngày 25-12 cho biết, trong năm 2025 đã hoàn thành 1.227 trên tổng số 1.298 nhiệm vụ, tương đương 95%; còn lại 71 nhiệm vụ chưa hoàn thành. Đáng chú ý, công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế ghi nhận bước đột phá với 30 luật được Quốc hội thông qua, 68 nghị định do Chính phủ ban hành và 60 thông tư của các bộ, ngành.

Những kết quả này tạo nên bước ngoặt quan trọng, hình thành hành lang pháp lý cho sự ra đời của một chuỗi chính sách bám sát tinh thần của nghị quyết. Cụ thể, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 193/2025/QH15 ngày 19-2 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt nhằm tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Các nội dung tiếp tục được hướng dẫn triển khai tại Nghị định 88/2025/NĐ-CP, tạo ra “làn ưu tiên” cho hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm và ứng dụng công nghệ trong khuôn khổ quản trị rủi ro.
Theo dòng chảy, Quốc hội cũng đã thông qua Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ngày 27-6, có hiệu lực từ ngày 1-10-2025. Luật xác lập các chính sách lớn nhằm thúc đẩy nghiên cứu, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo, tập trung vào phát triển hạ tầng, khuyến khích mạo hiểm, áp dụng cơ chế khoán chi linh hoạt và miễn trừ trách nhiệm khi chấp nhận rủi ro.
Đáng chú ý, một hệ quả quan trọng khác của Nghị quyết 57 là việc Quốc hội thông qua Luật Trí tuệ nhân tạo (AI) ngày 10-12-2025, có hiệu lực từ ngày 1-3-2026, đưa Việt Nam trở thành một trong số ít quốc gia sở hữu khung pháp lý toàn diện về AI.
Bên cạnh đó, một dấu ấn nổi bật khác trong năm là việc Thủ tướng Phạm Minh Chính ký Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 12-6 ban hành danh mục 11 nhóm công nghệ chiến lược với 35 sản phẩm công nghệ chiến lược.
Cùng với các chính sách trên, ngày 27-11, Bộ Khoa học và Công nghệ đã khai trương hệ thống quản lý trực tuyến nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo thời gian thực. Đây được xem là bước tiến quan trọng, đưa Việt Nam tiến gần hơn tới mô hình quản trị nghiên cứu dựa trên dữ liệu, minh bạch và tiệm cận các chuẩn mực quốc tế...
Chính phủ số, kinh tế số tăng tốc và những con số biết nói
Cũng theo báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW nói trên, đến cuối năm nay, tỷ lệ cung cấp dịch vụ công trực tuyến và dịch vụ công trực tuyến toàn trình ở cấp Trung ương lần lượt đạt 53,3% và 31,36%; ở cấp địa phương đạt 93,9% và 45%. Tỷ lệ người dân và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến tăng mạnh, qua đó giúp tiết kiệm khoảng 4.100 tỉ đồng. Cổng Dịch vụ công quốc gia cũng được hoàn thiện theo hướng “một cửa số” từ ngày 1-7, hỗ trợ vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.

Không dừng lại ở đó, hạ tầng số cùng các dịch vụ, tiện ích trên môi trường số tiếp tục phát triển mạnh, tạo nền tảng cho Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Hạ tầng số quốc gia được đầu tư mở rộng, với tốc độ internet thuộc nhóm tốp 20 thế giới, tỷ lệ phủ sóng 5G đạt gần 59% dân số và Trung tâm Dữ liệu quốc gia số 1 đã được hình thành.
Trên nền tảng hợp tác công nghệ với Qualcomm, đến nay hệ sinh thái 5G do Viettel High Tech phát triển đã được làm chủ 100% bởi người Việt, từ khối vô tuyến, phần mềm điều khiển đến khả năng tích hợp Open RAN. Trong giai đoạn từ ngày 19-2 đến ngày 10-12, Viettel đã triển khai 20.758 trạm 5G trên toàn quốc. Dự kiến đến hết năm, con số này sẽ tăng lên 30.000 trạm, mức cao nhất tại Việt Nam hiện nay, với độ phủ đạt 90% ngoài trời và 70% trong nhà.
Ở lĩnh vực kinh tế số, theo Bộ Công Thương, đại diện Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số cho biết quy mô thương mại điện tử năm nay đạt khoảng 31 tỉ đô la Mỹ, tăng trưởng 25,5%, chiếm khoảng 10% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ. Trước đó, Việt Nam cũng đã đặt mục tiêu kinh tế số đóng góp 20% GDP và tăng lên 30% vào năm 2030.
Liên quan đến chuyển đổi số trong quản lý thuế, theo Cục Thuế, trong năm nay, các dịch vụ thuế điện tử và hóa đơn điện tử được triển khai sâu rộng, ghi nhận hơn 13 triệu lượt tải ứng dụng, riêng năm 2025 tăng thêm 7 triệu lượt. Số tiền nộp thuế qua ứng dụng đạt xấp xỉ 18.000 tỉ đồng, gấp 2,1 lần tổng số tiền nộp của ba năm trước cộng lại. Ứng dụng eTax Mobile cũng vươn lên vị trí số 1 trong nhóm ứng dụng “Kinh doanh” trên App Store Việt Nam.
Trong lĩnh vực ngân hàng, chia sẻ tại họp báo công bố sự kiện “Chuyển đổi số ngành Ngân hàng năm 2025” ngày 26-5, đại diện Ngân hàng Nhà nước cho biết sau bốn năm triển khai Quyết định 810, nhiều nghiệp vụ ngân hàng cơ bản đã được số hóa hoàn toàn 100%, bao gồm tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn, mở và sử dụng tài khoản thanh toán, mở thẻ ngân hàng, ví điện tử, chuyển tiền và cho vay. Nhiều tổ chức tín dụng hiện có trên 90% giao dịch được thực hiện qua kênh số.

Hiện nay, ngành Ngân hàng đã có hơn 136,1 triệu hồ sơ khách hàng cá nhân (CIF) và hơn 1,4 triệu hồ sơ khách hàng tổ chức được đối chiếu sinh trắc học thông qua căn cước công dân gắn chip hoặc ứng dụng VNeID. Hệ thống thông tin hỗ trợ quản lý, giám sát và phòng ngừa rủi ro cho khách hàng (SIMO) của Ngân hàng Nhà nước cũng đã được triển khai thí điểm. Tính đến hết ngày 31-10, hơn 1,7 triệu lượt khách hàng đã nhận được cảnh báo, trong đó có hơn 567.000 lượt khách hàng tạm dừng hoặc hủy bỏ giao dịch sau khi nhận cảnh báo, với tổng giá trị giao dịch liên quan vượt 2.200 tỉ đồng.
Nhìn tổng thể, năm 2025 có thể xem là năm bản lề trong tiến trình hiện thực hóa Nghị quyết 57, khi các mục tiêu lớn không chỉ dừng lại ở định hướng mà đã được cụ thể hóa bằng hệ thống thể chế, hạ tầng và các kết quả đo đếm được. Từ hoàn thiện hành lang pháp lý, đầu tư hạ tầng số đến mở rộng dịch vụ công, kinh tế số và tài chính số, những chuyển động này cho thấy chuyển đổi số đang dần đi vào chiều sâu, gắn chặt hơn với hiệu quả quản trị và hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, giai đoạn tiếp theo sẽ là phép thử quan trọng về năng lực thực thi, khi yêu cầu không chỉ dừng ở ban hành chính sách mà còn ở khả năng biến các “làn ưu tiên” thành động lực tăng trưởng thực chất cho nền kinh tế.