Lạm phát đang giảm dần, cần ưu tiên hơn cho tăng trưởng
Multimedia - Ngày đăng : 15:44, 08/05/2023
Hầu hết các báo cáo cũng như ý kiến phát biểu tại cuộc họp đều thống nhất đánh giá, trong tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2023, tình hình có khó khăn, thách thức nhiều hơn cơ hội và thuận lợi.
Trên thế giới, tăng trưởng giảm, lạm phát hạ nhiệt nhưng vẫn neo ở mức cao; các thị trường lớn, truyền thống của Việt Nam bị thu hẹp. Trong nước, Việt Nam là nước đang phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi, quy mô nền kinh tế nhỏ nhưng độ mở lớn, sức chống chịu có hạn, một tác động nhỏ bên ngoài có thể ảnh hưởng lớn tới bên trong.
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm. Lạm phát có xu hướng giảm dần qua các tháng, tháng 4 giảm 0,34% so với tháng 3; bình quân 4 tháng tăng 3,84% so với cùng kỳ năm trước. Xuất siêu tiếp tục tăng mạnh, tháng 4 xuất siêu 1,51 tỷ USD, 4 tháng đầu năm xuất siêu 6,35 tỷ USD. Thị trường tiền tệ, tỷ giá cơ bản ổn định, lãi suất điều hành giảm 2 lần liên tiếp; chủ động điều hành chính sách tiền tệ theo hướng phù hợp, chắc chắn, linh hoạt và kịp thời, bảo đảm an toàn, thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
Tình hình sản xuất, kinh doanh có nhiều tín hiệu tích cực: công nghiệp có dấu hiệu phục hồi. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 4 tăng 3,6% so với tháng 3 và tăng 0,5% so với cùng kỳ năm 2022, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,2%. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản ổn định và có tăng trưởng; lúa gạo được mùa, được giá. Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò là bệ đỡ của nền kinh tế; xuất khẩu gần 3 triệu tấn gạo, trị giá 1,55 tỷ USD. Thương mại, dịch vụ xu hướng tăng cao, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 4 tăng 3,7% so với tháng 3 và 11,5% so cùng kỳ; du lịch phục hồi nhanh, tháng 4 khách quốc tế tăng 9,9% so với tháng 3, gấp 9,7 lần so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 4 tháng, tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động là 78.900 doanh nghiệp, gấp 1,3 lần bình quân giai đoạn 2018-2022 và nhiều hơn số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 77.000.
Các đột phá chiến lược được triển khai thực hiện hiệu quả với các giải pháp đồng bộ. Nhiều dự án, công trình giao thông quan trọng, liên vùng được đưa vào khai thác. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký mới tính đến ngày 20/4/2023 ước đạt 4,11 tỷ USD, tăng 11,1% so với cùng kỳ. Giải ngân vốn đầu tư công tăng 15 nghìn tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước.
An sinh xã hội được bảo đảm, tiếp tục kiểm soát tốt dịch Covid-19 và các dịch bệnh khác...
Các tổ chức quốc tế đánh giá tốt về tình hình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và dự báo lạc quan trong thời gian tới. Giá trị Thương hiệu quốc gia đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới giai đoạn 2020-2022, xếp vị trí 32 trong 100 giá trị thương hiệu quốc gia mạnh trên thế giới. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng 12 bậc, từ vị trí 77 vào năm 2022 lên 65 trong năm 2023.
Bên cạnh những kết quả đạt được, các thành viên Chính phủ cũng thẳng thắn cho rằng, nước ta còn không ít tồn tại, khó khăn, thách thức phải đối mặt, xử lý. Đó là: ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, chưa thực sự vững chắc; môt số động lực tăng trưởng giảm; lạm phát chịu nhiều sức ép; sản xuất công nghiệp 4 tháng đầu năm giảm; các thị trường xuất khẩu lớn, truyền thống của ta bị thu hẹp; thị trường nội địa chưa được khai thác hiệu quả; tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công thấp hơn so với cùng kỳ; việc triển khai một số chính sách của 3 Chương trình mục tiêu quốc gia, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội còn chậm; hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn...
Kết luận phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh 10 điểm nổi bật trong công tác chỉ đạo, điều hành tháng 4 và 4 tháng vừa qua.
Thứ nhất, tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy các thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp (Nghị định 08), thị trường bất động sản (Nghị quyết 33).
Thứ hai, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, đôn đốc các dự án, công trình trọng điểm quốc gia với 5 tổ công tác được thành lập.
Thứ ba, cho phép các tổ chức tín dụng cơ cấu lại nợ, gia hạn nợ, mua lại trái phiếu doanh nghiệp (Ngân hàng Nhà nước đã ban hành 2 Thông tư về nội dung này).
Thứ tư, gia hạn thời gian nộp thuế, tiền thuê đất (Nghị định 12) và đang trình cấp có thẩm quyền xem xét giảm thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất.
Thứ năm, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh (Nghị quyết 58).
Thứ sáu, xử lý vướng mắc về mua sắm thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế (Nghị quyết 30 và Nghị định 07).
Thứ bảy, tổ chức các hội nghị triển khai chương trình hành động của Chính phủ thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị về 6 vùng kinh tế - xã hội gắn với các hội nghị xúc tiến đầu tư.
Thứ tám, tổ chức các hội nghị trực tuyến toàn quốc về triển khai công tác quy hoạch, chuyển đổi số, du lịch, ngoại giao kinh tế, thực hiện Đề án 06, các phiên họp Ban chỉ đạo về cải cách hành chính, các công trình trọng điểm quốc gia...
Thứ chín, tập trung xử lý quyết liệt, có hiệu quả với các doanh nghiệp, dự án thua lỗ, các ngân hàng yếu kém. Trong 12 dự án thua lỗ ngành công thương, đã tìm được đầu ra cho 8 dự án.
Thứ mười, tập trung thúc đẩy các dự án hạ tầng chiến lược, vừa khánh thành các tuyến cao tốc Mai Sơn – Quốc lộ 45, Dầu Giây – Phan Thiết và các dự án Phan Thiết – Vĩnh Hảo, Cam Lâm – Nha Trang sẽ hoàn thành trong tháng 5 tới. Khởi công 12 dự án cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2 với chiều dài 729 km và khẩn trương chuẩn bị khởi công các dự án kết nối Đông Tây, các tuyến vành đai 4 Hà Nội, vành đai 3 TP.HCM.
Trả lời câu hỏi của Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy tại cuộc họp báo thường kỳ Chính phủ về sự chuẩn bị của Việt Nam để ứng phó với những tác động tiêu cực của thuế tối thiểu toàn cầu và giữ chân các nhà đầu tư FDI lớn, khi mà chỉ còn 8 tháng nữa cơ chế thuế tối thiểu toàn cầu sẽ được thực thi tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi cho biết: “Trước hết, để chuẩn bị ứng phó với các tác động của thuế tối thiểu toàn cầu, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Tổ nghiên cứu do Phó Thủ tướng Lê Minh Khái là tổ trưởng. Bộ Tài chính cũng được giao nhiệm vụ và đã chủ động thành lập nhóm giúp việc cho Tổ này”.
Ngày 18/4 vừa qua, Bộ Tài chính tổ chức hội thảo bàn về các quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu, kinh nghiệm áp dụng của các quốc gia và dự kiến tác động cũng như khuyến nghị các giải pháp cho Việt Nam. Qua hội thảo, Bộ Tài chính đánh giá có hai vấn đề chính:
Thứ nhất, Việt Nam có chủ động giành quyền đánh thuế tối thiểu toàn cầu hay chúng ta giữ lại những ưu đãi cho các doanh nghiệp FDI như trước đây theo các chính sách pháp luật của chúng ta? Qua hội thảo, các tổ chức tư vấn độc lập và các doanh nghiệp FDI chịu tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đều khuyến nghị: Việt Nam nên chủ động sớm ban hành quy định pháp luật để giành quyền đánh thuế tối thiểu toàn cầu cho các doanh nghiệp. Tức là chúng ta phải xây dựng, điều chỉnh hệ thống pháp luật để giành quyền đánh thuế tối thiểu toàn cầu theo mức thuế tối thiểu toàn cầu, nghĩa là thay đổi các ưu đãi trước đây chúng ta đã cam kết.
Thứ hai, tiếp tục các giải pháp vẫn thu hút doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tiếp tục đầu tư vào Việt Nam, cũng như giành các ưu đãi cho doanh nghiệp phù hợp với các điều kiện về chính sách thuế tối thiểu toàn cầu và các chính sách khác mà Việt Nam là thành viên tham gia cam kết. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng giải pháp hỗ trợ tài chính trực tiếp cũng như gián tiếp cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng sau khi chúng ta giành quyền đánh thuế, thay đổi mức độ ưu đãi cho các doanh nghiệp này.
Bộ Tài chính đang phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, ngành liên quan để cụ thể hóa các chính sách này và dự kiến có một số chính sách có thể hỗ trợ được (như: tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trực tiếp trong khu vực, trong khu công nghiệp mà những doanh nghiệp đang đóng trên địa bàn đó; hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp..., cùng những chính sách khác phù hợp với cam kết của Việt Nam trong hội nhập quốc tế và cũng thỏa mãn những doanh nghiệp FDI mà chúng ta có sự thay đổi về thuế toàn cầu.
Liên quan đến kết quả quá trình tháo gỡ khó khăn cho các dự án bất động sản theo tinh thần Nghị quyết 33 của Chính phủ, đặc biệt là các dự án lớn tại Hà Nội, TP.HCM, Đồng Nai, Bình Thuận, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh cho biết thời gian vừa qua, Tổ công tác của Chính phủ tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản đã hoạt động rất tích cực. Ngay sau khi thành lập, Tổ công tác đã tiến hành rà soát, làm việc với các địa phương để nhận diện những khó khăn vướng mắc.
Một là, về thể chế, vướng mắc về pháp luật của các dự án bất động sản. Qua rà soát các dự án, Bộ Xây dựng thấy nổi lên vấn đề liên quan đến đất đai, quy hoạch, trình tự thủ tục đầu tư và pháp luật về nhà ở cũng như các luật khác có liên quan.
Hai là, về thực thi ở các địa phương. Trong nhiều báo cáo, Bộ Xây dựng đều làm rõ việc trách nhiệm thực thi ở các địa phương chưa quyết liệt để tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho các dự án bất động sản.
Ba là, những khó khăn liên quan đến nguồn lực tài chính ở các dự án bất động sản. Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước đã có rất nhiều giải pháp trong thời gian qua.
Trên cơ sở nhận diện khó khăn, vướng mắc như vậy, thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo, đặc biệt là Nghị quyết 33 về các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho thị trường bất động sản phát triển an toàn, ổn định, lành mạnh. Ba công điện đôn đốc các bộ, ngành, địa phương cũng như các doanh nghiệp.
Về mặt thể chế, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định, các bộ, ngành đã ban hành nhiều thông tư để tháo gỡ khó khăn. Điển hình là Chính phủ đã ban hành Nghị định 08 về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, mang lại hiệu quả ngay, bước đầu đã có những tín hiệu tốt để đảm bảo nguồn lực.
Chính phủ ban hành Nghị định 10 sửa đổi một số điều của Nghị định thi hành Luật Đất đai. Việc này cũng đã tích cực tháo gỡ khó khăn, nhất là những việc như cấp sổ hồng cho các dự án bất động sản nghỉ dưỡng. Chính phủ hiện đã trình Quốc hội dự thảo Luật Nhà ở sửa đổi, trong đó đưa toàn bộ nhóm chính sách về vướng mắc liên quan đến nhà ở, đặc biệt là nhà ở xã hội, để Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ V, thông qua vào kỳ họp thứ VI và có hiệu lực ngay sau khi Quốc hội ban hành để tháo gỡ ngay cho đầu tư phát triển nhà ở xã hội trong thời gian tới.
Bộ Xây dựng cũng đang trình Chính phủ Nghị định sửa đổi các nghị định thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng, trong đó đã đưa ra nhiều sửa đổi để tháo gỡ vướng mắc, khó khăn liên quan đến quy hoạch, nhà ở, thủ tục, đặc biệt là tăng cường phân cấp, phân quyền cho các địa phương trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, trong thời gian qua, Chính phủ đã ban hành Đề án đầu tư ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội và nhà ở công nhân giai đoạn từ nay đến năm 2030. Đây là một trong những đề án có nhiều nhiệm vụ, mục tiêu rất cụ thể để triển khai, thúc đẩy phát triển các dự án bất động sản, nhất là nhà ở xã hội, nhà ở công nhân trong thời gian tới. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai ngay gói hỗ trợ 120 nghìn tỷ đồng, đã có văn bản hướng dẫn rất cụ thể cho các đối tượng là chủ đầu tư các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân vay để thực hiện đầu tư các dự án, cũng như cho vay các đối tượng để mua nhà ở xã hội, nhà ở công nhân. Bộ Xây dựng đã có văn bản hướng dẫn đầy đủ, chi tiết về điều kiện, chủ yếu là các dự án được vay, công bố cũng như ủy quyền cho các địa phương công bố các danh mục dự án đầu tư nhà ở xã hội để được vay nhanh nhất.
“Có thể nói, sau chỉ đạo rất quyết liệt của Thủ tướng cũng như của Tổ công tác, đến nay bước đầu đã cơ bản tháo gỡ được những vướng mắc về mặt pháp lý cho các dự án bất động sản”, Thứ trưởng Nguyễn Văn Sinh cho biết.
Liên quan đến các địa phương, Tổ công tác đã làm việc với các địa phương, rà soát các dự án tại TP.HCM là 180 dự án, TP.Hà Nội 170 dự án, Đà Nẵng 75 dự án, Hải Phòng 65 dự án, TP.Cần Thơ 79 dự án. Ngoài ra, Tổ công tác nhận được 71 văn bản đề nghị tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp liên quan đến 121 dự án bất động sản. Tổ công tác đã sàng lọc và có văn bản gửi các địa phương những dự án thuộc nội dung tháo gỡ thuộc thẩm quyền của địa phương, cũng như gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường liên quan đến các nội dung vướng mắc về lĩnh vực đầu tư, đất đai. Các địa phương đang tích cực triển khai rà soát, tháo gỡ để thúc đẩy các dự án này sớm triển khai trở lại trong thời gian tới.
Thời gian vừa qua, bên cạnh hoạt động chung, Tổ công tác đã làm việc với TP.HCM, Đồng Nai, Bình Thuận và một số địa phương khác. Đối với TP.HCM, đang rà soát để tháo gỡ 30 dự án cụ thể.
Đối với Đồng Nai, rà soát có 7 dự án liên quan đến các tập đoàn lớn như Novaland, Hưng Thịnh, DIC. Để giải quyết khó khăn vướng mắc, Tổ công tác đã thống nhất cùng UBND tỉnh và các doanh nghiệp để tháo gỡ.
Trả lời câu hỏi của Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy liên quan đến tiến độ xây dựng Nghị định của Chính phủ điều chỉnh mức lương cơ sở và nguồn lực để thực hiện tăng lương từ ngày 1/7 tới đây, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi cho biết: về nguồn lực để phục vụ cho chính sách tăng lương tối thiểu từ ngày 1/7 sắp tới, tại cuộc họp báo Chính phủ cách đây hơn nửa năm, tôi đã trả lời 1 phóng viên hỏi về nội dung này. Bộ Tài chính đã đề xuất với Chính phủ, đề xuất với Quốc hội bố trí đầy đủ nguồn lực để thực hiện việc tăng lương từ ngày 1/7/2023.
Tôi nhớ lúc đó đã trao đổi là khoảng 60.000 tỷ đồng cho 6 tháng cuối năm 2023 nhưng đến bây giờ, chuẩn xác lại khoảng hơn 59.000 tỷ đồng. Với nhu cầu khoảng 59.000 tỷ đồng, chúng tôi đã bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước năm 2023 là 12.000 tỷ đồng, còn 47.000 tỷ đồng được bố trí từ nguồn tăng thu dành cho cải cách tiền lương, trong đó ngân sách địa phương là 27.000, ngân sách Trung ương là 20.000 tỷ đồng.
Một lần nữa xin khẳng định Chính phủ đã chủ động bố trí đầy đủ nguồn lực để phục vụ cho chính sách tăng lương tối thiểu và cải cách tiền lương 6 tháng cuối năm 2023.
Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Duy Thăng: phần anh Chi trả lời dựa trên cơ sở Nghị quyết 69 của kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XV đã thông qua về dự toán ngân sách năm 2023. Trong các phụ lục của Nghị quyết 69 nêu rất rõ nguồn, khoảng gần 60.000 tỷ đồng.
Nghị quyết 69 đã đăng tải trên mạng rất đầy đủ toàn văn, kể cả các phụ lục về nguồn cải cách tiền lương. Bộ Nội vụ sẽ khẩn trương tiếp thu, giải trình các ý kiến Bộ Tư pháp thẩm định và sẽ trình Chính phủ trong tháng 5/2023 để thực hiện được từ ngày 1/7/2023 điều chỉnh lương cơ sở từ 1,49 triệu đồng lên 1,8 triệu đồng, tăng 20,8%.