Cách mạng kỹ thuật số ở châu Á và các bài học chính sách
Nghiên cứu - Trao đổi - Ngày đăng : 07:55, 13/02/2023
Có thể nói cuộc cách mạng kỹ thuật số đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu, trong đó các nhà nghiên cứu đánh gia đang diễn ra mạnh mẽ nhất tại khu vực châu Á. Mặc dù số hóa và tự động hóa không phải là mới, nhưng chúng đã tăng tốc trong những năm gần đây và một làn sóng đổi mới - được kích hoạt bởi những tiến bộ trong trí tuệ nhân tạo, robot, sức mạnh tính toán và mật mã, cũng như sự bùng nổ của dữ liệu lớn - đang định hình lại nền kinh tế toàn cầu. Hơn cả trong những giai đoạn đổi mới trước đây, bao gồm cả sự phủ rộng của máy tính cá nhân trong những năm 1980 và sự gia tăng của Internet trong những năm 1990, những tiến bộ công nghệ ngày nay rất đa dạng và chồng chéo, tạo ra sức mạnh tổng hợp và đẩy nhanh kết quả. Cuộc cách mạng kỹ thuật số đang ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực, với những tác động sâu rộng đến kinh tế và cả xã hội. Các công nghệ mới đều có mục đích chung, với tiềm năng biến đổi nền kinh tế toàn cầu, thúc đẩy năng suất và thay đổi cơ bản cách chúng ta sống và làm việc, giống như những gì mà động cơ hơi nước và điện đã mang lại trước đây. Tuy nhiên trong quá trình đó, những công nghệ này cũng có thể gây ra những đứt gẫy và chệch hướng đáng kể, số hóa mang lại cả cả cơ hội và thách thức cho các quốc gia. Có những quốc gia châu Á dẫn đầu hầu hết mọi khía cạnh của số hóa, trong khi một số nền kinh tế vẫn đang còn lạc hậu. Tỷ lệ kinh tế số trong GDP, đại diện bởi tỷ trọng của lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), tương đối lớn ở nhiều nền kinh tế Châu Á - là nơi có bảy trong số mười nền kinh tế hàng đầu thế giới xét về tỷ trọng ICT trong GDP.
Các nhà nghiên cứu đã phân tích những kết quả của cuộc cách mạng kỹ thuật số ở châu Á đồng thời chỉ ra những chính sách quan trọng làm cơ sở nền tảng cho cuộc cách mạng kỹ thuật số tại các quốc gia này.
Thứ nhất, với vai trò là “công xưởng của thế giới”, tự động hóa thông qua robot công nghiệp là một lĩnh vực mà Châu Á rõ ràng đi đầu với 2/3 số robot công nghiệp trên thế giới được sử dụng trong khu vực này; Thương mại điện tử và công nghệ tài chính (fintech) là những lĩnh vực khác mà Châu Á cũng đang dẫn đầu. Cách đây khoảng hơn một thập kỷ, Trung Quốc chỉ chiếm chưa đến 1% thương mại điện tử bán lẻ toàn cầu, nhưng con số này vừa qua đã tăng lên hơn 40% và mức độ thâm nhập của thương mại điện tử (tính theo phần trăm tổng doanh thu bán lẻ) hiện là ở mức 15%, so với 10% ở Mỹ. Mức độ thâm nhập của thương mại điện tử ở những nước thấp hơn của châu Á thì cùng đang tăng nhanh, đặc biệt là ở Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam. Về lĩnh vực fintech, các nền kinh tế châu Á đã đạt được những tiến bộ đáng kể, trong nhiều trường hợp là sự nhảy vọt với các loại hình công nghệ mới. Ví dụ, vào năm 2016, các khoản thanh toán di động do các cá nhân thực hiện để mua hàng tiêu dùng đạt tổng trị giá 790 tỷ đô la ở CHND Trung Hoa, gấp 11 lần quy mô của các khoản thanh toán tương tự ở Mỹ.
Thứ hai, châu Á đã được hưởng lợi rất nhiều từ số hóa, sự lan tỏa của đổi mới công nghệ là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người ở châu Á trong 2 thập kỷ qua, với riêng đổi mới kỹ thuật số đã chiếm gần 30%. Tỷ lệ kinh tế số trong GDP, đại diện bởi tỷ trọng của lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), tương đối lớn ở nhiều nền kinh tế Châu Á - Châu Á là nơi có bảy trong số 10 nền kinh tế hàng đầu thế giới xét về tỷ trọng ICT trong GDP. Ngành này cũng đang tăng trưởng nhanh hơn đáng kể so với GDP tổng thể - nhanh gấp hai lần ở Ấn Độ và Thái Lan, và gấp gần bốn lần ở Nhật Bản. Số hóa cũng đã thúc đẩy năng suất của các lĩnh vực phi ICT. Đổi mới ở châu Á đang nghiêng về lĩnh vực kỹ thuật số, càng làm nổi bật tiềm năng thúc đẩy tăng trưởng trong tương lai.
Thứ ba, thương mại điện tử có tiềm năng hỗ trợ tăng trưởng và tái cân bằng các nền kinh tế châu Á. Đối với người tiêu dùng, thương mại điện tử ở châu Á đã thúc đẩy tiêu dung, đồng thời đưa đến khả năng tiếp cận tốt hơn với nhiều loại sản phẩm và dịch vụ với giá thấp hơn. Đối với các doanh nghiệp châu Á, thương mại điện tử cũng đã cung cấp các cơ hội kinh doanh mới và khả năng tiếp cận với các thị trường lớn hơn và do đó có thể hỗ trợ đầu tư. Số liệu cụ thể đã cho thấy thương mại điện tử hỗ trợ các doanh nghiệp các nước châu Á đẩy mạnh xuất nhập khẩu và thương mại điện tử dường như đặc biệt có lợi cho các công ty nhỏ ở châu Á.
Thứ tư, số hóa mang lại cơ hội cải thiện tài chính công ở châu Á. Việc chính phủ các nước áp dụng số hóa có thể tăng thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế quan và doanh thu khác thông qua cải thiện báo cáo các giao dịch và nhờ đó các nền kinh tế châu Á thu nhập từ thuế VAT có thể tăng thêm 0,6% GDP. Số hóa cũng có thể cải thiện hiệu quả của chi tiêu công thông qua mục tiêu hỗ trợ xã hội, bằng cách giảm các sai sót về lỗi chấp nhận và loại trừ.
Thứ năm, các nền kinh tế châu Á công nghệ lớn đang có xu hướng giảm cơ sở hạ tầng tài chính truyền thống, đặc biệt là các chi nhánh ngân hàng. Không giống như các công ty công nghệ của Mỹ, những gã khổng lồ công nghệ châu Á, đặc biệt là ở CHND Trung Hoa, đã trở thành những nhà cung cấp dịch vụ tài chính chủ chốt, gây áp lực cạnh tranh lên các tổ chức tài chính truyền thống.
Các nhà nghiên cứu cho rằng dù cuộc cách mạng số là tất yếu, nhưng kết quả - hoàn hảo hay không hoàn hảo - sẽ phụ thuộc vào các chính sách nền tảng của các quốc gia đó như thế nào. Để nhận ra tiềm năng của cuộc cách mạng số, cần có các chính sách toàn diện và tư duy đổi mới. Đối với các nhà hoạch định chính sách, rào cản đầu tiên là phải chấp nhận rằng cuộc cách mạng số là tất yếu. Các phản hồi chính sách sẽ cần đạt được sự cân bằng phù hợp giữa việc cho phép đổi mới kỹ thuật số và giải quyết các rủi ro liên quan đến số hóa. Các ưu tiên chính sách là khác nhau ở châu Á (và cả trên thế giới), do điều kiện ban đầu của các nền kinh tế là khác nhau. Điều đáng nói là việc số hóa mang cả cơ hội và thách thức đã rất rõ ràng. Một số nhà kinh tế, những người hoài nghi về khả năng tiếp tục tiến bộ của công nghệ sẽ tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, cho rằng hầu hết các mục tiêu đơn giản thì đã đạt được và quá trình đổi mới tiếp theo sẽ ngày càng trở nên khó khăn hơn. Tuy nhiên, từ thực tiễn của những nền kinh tế đang dẫn đầu về số hóa tại khu vực châu Á, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng tại các quốc gia này đã có những chính sách làm cơ sở nền tảng cho sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của nền kinh tế số ở các nước châu Á, đồng thời cho rằng các nước đi chậm hơn có thể nghiên cứu những bài học kinh nghiệm này cho quá trình phát triển kinh tế số của mình.
Trước hết, để thúc đẩy số hoá nền kinh tế nhất thiết phải cáo các chính sách thúc đẩy tiến bộ công nghệ: Tiền đề quan trọng nhất cho sự hình thành phát triển kinh tế số trước hết là các chính sách tập trung vào việc nâng cáo năng suất; khuyến khích các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) trong lĩnh vực kỹ thuật số và các lĩnh vực khác có liên quan của nền kinh tế; Trước hết, để thúc đẩy số hóa nền kinh tế nhất thiết phải có các chính sách thúc đẩy tiến bộ công nghệ: Tiền đề quan trọng nhất cho sự hình thành phát triển kinh tế số trước hết là các chính sách tập trung vào việc nâng cao năng suất; khuyến khích các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) trong lĩnh vực kỹ thuật số và các lĩnh vực khác có liên quan của nền kinh tế; thúc đẩy sự phổ biến kiến thức toàn cầu bằng cách khuyến khích các doanh nghiệp năng động và đổi mới; nâng cấp cơ sở hạ tầng vật chất và hạ tầng mềm; và nâng cao chất lượng giáo dục đồng thời cải thiện khả năng tiếp cận với nền giáo dục có chất lượng. Các chính sách nhằm tăng cường R&D và đẩy mạnh đổi mới ở các nước Châu Á luôn phải song hành với việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (chính sách bằng sáng chế), đẩy mạnh cạnh tranh đối với tài trợ nghiên cứu và hỗ trợ tối ưu của Chính phủ. Đầu tư vào R&D và nguồn nhân lực là điều cần thiết không chỉ để xây dựng năng lực đổi mới mà còn để tối đa hóa việc tiếp nhận và áp dụng các đổi mới hiện có.
Chính sách thúc đẩy thương mại điện tử: Cần có những chính sách cải thiện các yếu tố tạo điều kiện để thúc đẩy hơn nữa thương mại điện tử ở châu Á. Những sự chia cách và khoảng cách kỹ thuật số hiện tại về cơ sở hạ tầng và luật pháp thương mại điện tử giữa các nước vẫn đang ngăn cản nhiều nền kinh tế châu Á trong việc gặt hái đầy đủ những lợi ích tiềm năng. Mặc dù phát triển nhanh chóng, thương mại điện tử, bao gồm thương mại điện tử xuyên biên giới, có thể mở rộng nhanh hơn nếu các rào cản khác nhau được dỡ bỏ, hỗ trợ thêm cho thương mại quốc tế, tạo nhiều cơ hội hơn cho doanh nghiệp và tăng phúc lợi cho người tiêu dùng.
• Các yếu tố và điều kiện kinh tế thúc đẩy thương mại điện tử: Một giao dịch thương mại điện tử thành công yêu cầu một số yếu tố quan trọng, bao gồm việc truy cập internet cho phép người dùng đặt hàng, một máy chủ an toàn để bảo đảm thanh toán và bảo vệ thông tin cá nhân, một phương thức thanh toán như thẻ tín dụng, ví điện tử hoặc thanh toán qua điện thoại di động và dịch vụ giao hàng đáng tin cậy cho hàng hóa vật chất. Trong khi các nền kinh tế phát triển, bao gồm cả ở châu Á, đều có mức độ sẵn sàng cao cho thương mại điện tử, thì các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển trong khu vực vẫn còn khoảng cách lớn về các yêu cầu này.
• Môi trường pháp lý và thể chế cho thương mại điện tử. Việc thiếu các qui định pháp luật điều chỉnh môi trường điện tử sẽ hạn chế sự tham gia vào thương mại điện tử của cả người tiêu dùng và bên cung cấp hàng hóa. Ví dụ, luật giao dịch điện tử là cần thiết để làm cho các hình thức giao dịch điện tử tương đương về mặt pháp lý với các giao dịch bằng giấy tờ, đó là điều kiện quan trọng cho hầu hết các giao dịch thương mại điện tử. Việc thiếu luật bảo vệ người tiêu dùng và luật bảo vệ quyền riêng tư và dữ liệu cá nhân và luật về tội phạm mạng đã ngăn cản khách hàng tiềm năng mua sắm trực tuyến. Việc ban hành các cơ chế lập pháp và quản lý phù hợp có thể giảm bớt các rào cản pháp lý đối với việc sử dụng thương mại điện tử, nâng cao lòng tin của người tiêu dùng và mở rộng các giao dịch trong nước và đặc biệt là xuyên biên giới.
Các chính sách quản lý quá trình chuyển đổi và giảm thiểu bất bình đẳng: Các chính sách để khai thác lợi ích kỹ thuật số bao gồm cải cách giáo dục để đáp ứng nhu cầu phải có những kỹ năng linh hoạt hơn và học tập suốt đời, cũng như đào tạo mới, đặc biệt là cho những người lao động bị ảnh hưởng nhiều nhất; giảm bớt sự thiếu hụt về kỹ năng của người lao động so với yêu cầu của công việc; và giải quyết các thách thức về thị trường lao động và xã hội, bao gồm phân phối lại thu nhập và mạng lưới an sinh xã hội.
Khi tự động hóa tăng cường, nhiều công nhân sẽ cần tìm việc làm mới, đặc biệt là những người có kỹ năng thấp hơn. Cải cách về giáo dục, đặc biệt là ở cấp trung học cơ sở hoặc cấp thấp hơn, có thể có tác động đến việc quản lý chuyển đổi tiến xa hơn sang thời đại tự động hóa mới. Điều này càng quan trọng khi tiến tới giai đoạn thúc đẩy các kỹ năng nền tảng, kiến thức kỹ thuật số, kỹ năng tư duy bậc cao, và các năng lực cảm xúc và xã hội. Đồng thời, cần thiết cung cấp các cơ hội đào tạo và đào tạo lại để giúp người lao động tự điều chỉnh và có được các kỹ năng mới cần thiết. Cải cách giáo dục được thực hiện trên cơ sở chính phủ xác định rõ ràng, chính xác và cụ thể các kỹ năng cần thiết và chuyển thành các chương trình đào tạo.
Như Korinek và Stiglitz (2018) đã chỉ ra, các chính sách làm giảm nhẹ tác động của các công nghệ mới lên thị trường lao động có thể tạo ra sự khác biệt về phương diện cải thiện phúc lợi. Khi xã hội càng sẵn sàng hỗ trợ cho quá trình chuyển đổi cần thiết và cung cấp hỗ trợ cho những người bị bỏ lại phía sau thì xã hội đó càng thích ứng với sự đổi mới với tốc độ càng nhanh hơn trong khi vẫn đảm bảo kết quả cải thiện phúc lợi tốt hơn cho tất cả các thành viên của xã hội.
Chính sách số hóa tài chính: Với việc áp dụng rộng rãi của fintech và sự gia tăng nhanh chóng của các phương thức phân phối khác nhau, đã đến lúc cần thiết phải có hợp tác quốc tế trong việc tổng kết đánh giá và phát triển các giải pháp tốt nhất. Fintech ẩn chứa vai trò tác động đến sự không hoàn hảo và cấu trúc chi phí của thị trường tài chính, do đó cũng sẽ có tác động đối với sự ổn định và cạnh tranh trên thị trường tài chính.
Cần thiết có dữ liệu tốt hơn để theo dõi các phát triển mới và cũng cần có sự nhạy bén hơn từ các cơ quan quản lý và giám sát do sự gia tăng nhanh chóng của các sản phẩm fintech khác nhau. Điều này đặc biệt cần thiết ở những quốc gia chưa có quy định rõ ràng hoặc các thông tin dữ liệu nói trên nằm ngoài phạm vi các thông tin báo cáo truyền thống.
Trong khi đó, việc tiếp tục thúc đẩy gia nhập thị trường với các rào cản thấp hơn đồng thời duy trì một sân chơi bình đẳng đang trở thành một vấn đề đáng lưu ý với sự thống trị ngày càng tăng của các doanh nghiệp lớn. Cần phải có các quy định đẩy mạnh cạnh tranh nhiều hơn và giảm hơn nữa chi phí trung gian tài chính, nhưng đồng thời phải hỗ trợ giải quyết một số vấn đề của môi trường kinh doanh ngân hàng hiện tại, chẳng hạn như vấn đề quá lớn để thất bại (too-big-to-fail issue). Ngoài ra, cần bổ sung các quy định khuyến khích sử dụng ít đòn bẩy hơn đối với những người mới bắt đầu tham gia thị trường, điều đó sẽ giúp cho sự tăng trưởng bền vững và cải thiện kỷ cương của ngành, đồng thời giải quyết các rủi ro phát sinh từ rửa tiền và/hoặc tài trợ cho khủng bố và các mối đe dọa an ninh mạng. Để khai thác các lợi ích kỹ thuật số yêu cầu phải có một khuôn khổ an ninh mạng mạnh mẽ.
Chính sách tăng cường tài chính công: Các hành động chính sách có thể biến rủi ro thành cơ hội. Số hóa cũng cho phép tăng cường giám sát các giao dịch kinh doanh, kể cả giao dịch không chính thức. Khả năng thu thập dữ liệu đó thể hiện rất rõ tại các nền tảng P2P khi chúng thay thế các hoạt động không chính thức phi tập trung. Hơn nữa, sự phát triển của các nền tảng P2P thậm chí có thể tạo cơ hội cho các Chính phủ ban hành các quy định yêu cầu khấu trừ tại nguồn đối với các giao dịch. Việc khấu trừ có thể được xác lập cho thu nhập, hàng hóa và dịch vụ hoặc thuế giá trị gia tăng áp dụng cho người bán. Việc khấu trừ này có thể đơn giản hơn so với thuế gián thu.
Việc chia sẻ dữ liệu có thể khả thi hơn trong điều kiện tăng cường áp dụng các công nghệ kỹ thuật số. Một số quốc gia châu Á đã nghiên cứu áp dụng kinh nghiệm của các nước OECD và G20 để thiết lập một hệ thống trao đổi thông tin tự động về các tài khoản tài chính của người không cư trú; đồng thời, thiết lập các sổ đăng ký quốc tế về quyền sở hữu tài sản và cổ phần, cho phép đánh thuế thu nhập tài chính tại cơ sở cư trú thay vì tại nguồn. Việc kết hợp thông tin về tài sản và thu nhập tài chính sẽ cho phép áp dụng hệ thống thuế thu nhập kép, theo đó thu nhập tài chính và tài sản sẽ được liên kết theo một biểu duy nhất, tạo ra một loại thuế thu nhập tài chính tổng hợp.